Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Ngũ CănNgũ Lực Là Gì?

Tuesday, October 22, 202417:15(View: 574)
Ngũ Căn – Ngũ Lực Là Gì?

Ngũ CănNgũ Lực Là Gì?

Thích Nữ
 Hằng Như

 hinh phat 17

 


I. DẪN NHẬP

            Ngũ căn và ngũ lực tiếng Phạn là Pancindriya và Pancabala. Indriya có nghĩa là nguồn gốc, khả năng để tất cả các thiện pháp sinh khởiBala là lực, là sức mạnhNgũ căn và ngũ lực là phẩm đôi nhập một trong số 37 phẩm trợ đạo gọi chung là Đạo đế gồm: Tứ niệm xứTứ chánh cầnTứ thần túc, Ngũ căn-Ngũ lực, Thất giác chi và Bát chánh đạo.

            Ngũ căn là năm yếu tố cốt lõi, là phương tiện thực tiễn hỗ trợ cho việc tu học của hành giả. Năm yếu tố căn bản phát sinh và được làm cho viên mãn theo trình tự duyên khởi Tín-Tấn-Niệm-Định-Tuệ. Và khi ngũ căn được tu tập làm cho sung mãn, thì sẽ biến thành ngũ lực tức tạo ra sức mạnh gồm: Tín lực-Tấn lực-Niệm lực-Định lực và Tuệ lực.

                                           

                                        II. Ý NGHĨA VÀ THÀNH PHẦNCỦA NGŨ CĂN

            1) TÍN CĂN :   Tín” hay “tin” trong đạo Phật là sự chấp nhận một vấn đề gì bằng sự hiểu biết. Không phải là sự chấp nhận một cách mù quáng, vô điều kiện, bất chấp lý trí. Sự chấp nhận hay lòng tin này chỉ có được, sau khi suy luận sáng suốt và quan sát kỷ càng. Đức Phật không bao giờ bắt buộc Phật tử tin một điều gì mà không thể suy luận, hay không giảithích được.

            Thí dụ như lời Phật dạy về bài pháp Tứ Diệu Đế là pháp nhận ra bốn sự thật. Đó là Khổ đếTập đếDiệt đế và Con đường đưa đến Diệt đế. Muốn thành công trên lộ trình tu tậpgiải thoát này, hành giả cần phải nghiên cứu pháp học theo lộ trình VĂN-TƯ-TU. Văn tức là nghe giảng. Tư là tìm hiểu rõ ràng ý tứ bài giảng. Tin tưởng nơi Pháp học, rồi mới tu tập sống theo lời dạy của Pháp. Như vậy hành giả có Tín căn vào pháp Tứ Diệu Đế.  Nhờ VĂN tuệ và TƯ tuệ nên hành giả hiểu biết đúng đắn về giáo lý Tứ Thánh ĐếHiểu biết đời sống thế giankhông ai thoát khỏi Khổ. Khổ do nhiều nguyên nhân gây ra. Đó là hai vế đầu của Tứ diệu đếgọi là Khổ đế và Tập đếĐồng thời hiểu rõ con đường đưa đến Diệt khổ là Đạo đế bát chánhgồm tám yếu tố : Chánh kiếnChánh tư duyChánh ngữChánh NghiệpChánh mạngChánh Tinh tấnChánh niệmChánh địnhHiểu biết như thật về Đạo đế tức Bát chánh đạo, nên hành giả không còn  nghi ngờ, phân vân, lưỡng lự về hai đế: “Khổ diệt và Con đườngKhổ diệt”, nên phát sinh lòng  tin mạnh mẽ vào phương pháp hành trìĐức tin phát xuất qua sự học hỏi hiểu biết như vậy, trong kinh gọi là Chánh Tín, là yếu tố đầu tiên trong Ngũ căn gọi là Tín Căn.

            2) TẤN CĂN: Tấn là tinh tấnTấn căn là sự dũng mãnh tinh tấn trên bước đường tu tập không bao giờ thối lui. Khi có lòng tin sâu vào Phật pháp, thì mới cố gắng tu tậpNếu không, thì niềm tin suông này sẽ trở thành vô dụng, không đưa chúng ta đến đâu cả.

            Tinh tấn là pháp tu mà trong các phẩm trợ đạo đều có như: - Tu “Tứ Niệm Xứ” đức Phật dạy hành giả lúc nào cũng phải “nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm”. Nhiệt tâm đây được hiểu là tinh tấn siêng năng. - Trong “Tứ chánh cần” toàn bộ bốn pháp đều là tinh tấn. Hai tinh tấn phát sinh thiện pháp và hai tinh tấn ngăn chận bất  thiện pháp.  - Trong “Tứ thần túc” thì có Cần thần túc. – “Ngũ căn” thì có Tinh tấn căn. – “Ngũ lực”  thì có Tinh tấn lực.- “Thất giác chi” thì có Tinh tấn giác chi.- “Bát chánh đạo” thì có Chánh tinh tấn. - Trong “Lục độ” thì có Tinh tấn độ. Điều này cho thấy Tinh tấn là yếu tố không thể thiếu trong việc tu học đạo và hành đạo.

            3) NIỆM CĂN: Nói cho đủ là Chánh niệm. Niệm ở đây là chú tâm nhớ nghĩ đến pháp học và pháp hành không để tâm lang thang phóng dậtChánh niệm là  chi đầu tiên của lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế (Chánh niệmChánh định). Khi Chánh niệm có mặt, thì mọi tà niệm, tham, sân, si, mạn nghi, sầu, bi, khổ, ưu, não... vắng mặt. Ngược lại sống trong thất niệm, thì tâm hành giả dễ dàng bị ngũ dục lôi kéo khiến vô minh và tham ái bao trùm.

            4. ĐỊNH CĂN: Khi chánh niệm vững chắc thì thân tâm hành giả gom lại thành một khối duy nhất gọi là định. Định có nghĩa là tâm vắng lặngyên tịnh.  Trên con đường tu tậpBát chánh đạo, khi Chánh tinh tấn khởi lên, thì phát sinh Chánh niệm liên tục đưa đến trạng thái định gọi là Chánh định bao gồmSơ thiền: Ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm có tứ. Nhị thiền: Diệt tầm diệt tứ, chứng và trú nhị thiền, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâmTam thiền: Ly hỷ trú xả, thân cảm lạc thọ mà bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú thiền thứ ba. Tứ thiền: Xả lạc, xả khổ, diệt trừ hỷ ưu, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, tâm thanh tịnh nhờ xả. Định được xem là yếu tố thứ tư trên con đường tu học.

            5) TUỆ CĂN: Là yếu tố thứ năm của sự tu học.  Khi một người có đầy đủ trí tuệ về sự sanh diệt các pháp. Vị ấy biết như thật đây là Khổ, biết như thật đây là Khổ Tập khởi, biết như thật đây là Khổ Đoạn diệt, biết như thật đây là Con đường (Bát chánh) đưa đến đoạn tận Khổ.  Đó là người có Tuệ căn.

            Tín-Tấn-Niệm-Định-Huệ là một chuỗi yếu tố kết nối theo quy luật duyên khởi. Trong đó Tín và Tấn do VĂN TUỆ và TƯ TUỆ phát sinh, còn Niệm-Định-Tuệ nhờ TU TUỆ mới phát sinh.

            Thế nào gọi là liên kết theo duyên khởi? Đó là khi hành giả  tin mình có thể tu tập đạt kết quả,  thì mình “không còn buông lung phóng dật”, tức là tinh tấn. Khi không buông lungphóng dật thì mình “trọn vẹn với cái hoàn hảo đang là”, thì đó là niệm. Với pháp hoàn hảođang là nên “tâm không dao động” nữa, đó tức là địnhCuối cùng “biết rõ cái đang là” đó là tuệ. Cho nên Tín-Tấn-Niệm-Định-Tuệ là một chuỗi pháp nối kết rất  tự nhiên.

                             

                              III. Ý NGHĨA VÀ THÀNH PHẦN CỦA NGŨ LỰC

            Ngũ lực là năm sức mạnh của ngũ căn. Đó là Tín lựcTinh tấn lựcNiệm lựcĐịnh lựcvà Tuệ lựcNgũ căn tăng trưởng, không bị phiền não phá hoại gọi là ngũ lực. Có vị so sánhngũ căn như năm ngón tay, còn ngũ lực là sức mạnh của năm ngón tay đó. Ngũ lực gồm có:

            1) Tín lực: Là sức mạnh của đức tin, có công năng phá trừ sự nghi ngờTín lực do lòng tin tưởng mạnh mẽ từ Tín căn mà phát sinh.

            2) Tấn lực : Nói cho đủ là Tinh tấn lực. Khi Tinh tấn căn được huân tập mạnh mẽ tạo ra một lực, có công năng phá trừ sự biếng nhác của thân tâm, gọi là Tinh tấn lực.

            3) Niệm lực: Do Niệm căn phát sinh. Niệm lực là sức mạnh của sự ghi nhớ trọn vẹnvới cái đang là. Nó có công năng đánh tan mọi tà niệm, đưa đến trạng thái Nhất tâm làm viên mãn Định lực. Khi thực hành pháp quán Thân, Thọ, Tâm, Pháp, Niệm lực sẽ làm cho phát triển và viên mãn Tuệ căn.

            4) Định lực: Là sức mạnh của sự tập trung tư tưởng, nó phát sinh từ Định căn. Định lực có công năng diệt trừ sự loạn tưởng, giúp hành giả thoát ra khỏi sự chi phối ràng buộccủa tham sân si, ra khỏi sự kiềm tỏa của dục lạc thế gian.

            5) Tuệ lực: Là sức mạnh chấm dứt vô minh. Khi thân tâm gom lại thành một định lực, thì trong khối định lực đó có một sự hiểu biết trực giác vô ngôn, vượt ra ngoài không gian và thời gian. Sự hiểu biết không còn lệ thuộc vào không gian và thời gian được gọi là Tuệ lực.

            Như vậy Ngũ lực là sức mạnh tiếp nhận do sự kiên trì tu luyện của hành giả về Ngũ căn. Khi năm yếu tố căn bản của sự tu học: Tín-Tấn-Niệm-Định-Tuệ tuần tự khởi lên, và được phát triển viên mãn, thì mỗi một yếu tố sẽ sinh một lực. Lực này là sức mạnh giúp cho người tu vượt qua mọi khó khăn, khắc nghiệt, gian nguy trên con đường tu học tâm linhhướng đến quả vị giác ngộ giải thoát.

 

IV. KẾT LUẬN

            Tóm lạiNgũ căn là năm nguồn gốc căn bản phát huy ngũ lựcTu tập Ngũ căn thuần thục đạt được Ngũ lực, giúp người tu vượt qua mọi sự quyến rủ lôi cuốn bởi dục lạc của đời sống thế gian, không bị lay động bởi tám gió đời: Lợi-Suy, Hủy-Dự, Xưng-Cơ, Khổ-Lạc (Thành công-thất bại; Hạ nhục-tôn vinh; Xưng tán-chê bai; Lo buồn-vui sướng) cản trở con đường tu học hướng đến giác ngộ giải thoát.

            Học Phật, chúng ta thấy Ngũ căn-ngũ lực là năm yếu tố căn bản, năm yếu tố cốt lõitrên con đường tu học, mà đức Phật đã dạy cho một kẻ phàm phu mới bắt đầu, cho đến khi kết thúc trở thành bậc Vô học (A-la-hán). Trong lộ trình tu học hành giả cần phải trải nghiệm đủ năm yếu tố này, thiếu đi, dù một trong năm yếu tố cũng không thể thành tựu quả giải thoát.

            Là thiền sinhchúng ta cần rút ra bài học quan trọng của “Ngũ căn-Ngũ lực” này là trước khi đặt lòng tin mãnh liệt vào pháp tu nào,  chúng ta cần phải đi đúng theo lộ trình VĂN-TƯ-TU, tức là  phải nghe, phải đọc, tìm hiểu cặn kẻ, hiểu đúng như thật về pháp tu mà ta sắp chọn. Xem pháp tu này có thích hợp với căn cơ của mình hay không? Pháp này có thực sự đưa đến giác ngộgiải thoát cho người hành trì? Nghĩa là phải có Chánh kiếnChánh tư duyvề pháp học, pháp hành, rồi mới có Chánh tín được! Tiếp theo là Chánh tín là Chánh Tinh TấnChánh NiệmChánh định và sau cùng là phát Huệ tức giác ngộgiải thoát khỏi mọi phiền não khổ đau.  Chúng tôi tạm dừng bài “Ngũ Căn- Ngũ Lực” tại nơi đây. Kính chúc quý vị hữu duyên thực hành tinh tấn lời Phật dạyNam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

                                                           

THÍCH NỮ HẰNG NHƯ

(Sinh hoạt với Hội Thiền TÁNH KHÔNG

Sacramento và San Jose ngày 22/10/2024)

 

Ghi thêm: 37 phẩm trợ đạo gồm:

1)  Tứ Niệm Xứ: Tập trung niệm vào bốn phạm trù: Thân, Thọ, Tâm, Pháp.

2) Tứ Chánh Cần: (1) Việc ác đã sinh, nỗ lực đoạn trừ.. (2) Việc ác chưa sinh gắng không phạm phải.  (3) Nỗ lực tăng trưởng việc thiện đã làm. (4) Chưa làm việc thiện nên cố gắngthực hiện.

3) Tứ thần túc (Tứ Như ý túc): Đây là bốn pháp thiền định. Bốn pháp đó là: Dục thần túcTinh tấn thần túcTâm thần túc và Quán thần túc.

4)  Ngũ căn-Ngũ lực: Tín căn-Tấn căn-Niệm căn-Định căn-Tuệ căn;  Tín lực, Tấn lực, Niệm lựcĐịnh lựcTuệ lực.

5)  Thất giác chi (Thất bồ đề phần): (1) Niệm giác chi, (2) Trạch pháp giác chi, (3) Tinh tấn giác chi. (4) Hỷ giác chi, (5) Khinh an giác chi, (6) Định giác chi, (7) Xả giác chi.

6) Bát chánh đạo: (1) Chánh kiến, (2) Chánh tư duy, (3) Chánh ngữ, (4) Chánh nghiệp (5) Chánh mạng, (6) Chánh tinh tấn, (7) Chánh niệm (8) Chánh định.
Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 1889)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(View: 1879)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(View: 2027)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(View: 1790)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(View: 2532)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(View: 2365)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(View: 2276)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(View: 2125)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(View: 2257)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(View: 2360)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(View: 2476)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(View: 2222)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(View: 2119)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(View: 2307)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(View: 2334)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(View: 2302)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(View: 2486)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(View: 2434)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(View: 2361)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(View: 2571)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(View: 2295)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(View: 2274)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(View: 2469)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(View: 3562)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(View: 2479)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(View: 2648)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(View: 2247)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(View: 2696)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(View: 2653)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(View: 2302)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(View: 2254)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(View: 2465)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(View: 2265)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(View: 2387)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(View: 2086)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(View: 2055)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(View: 2018)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(View: 2351)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(View: 2368)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(View: 1982)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(View: 2068)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(View: 2039)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(View: 2285)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(View: 2215)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(View: 2409)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(View: 2728)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(View: 2246)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(View: 2217)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(View: 2389)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM