Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về ?

20 Tháng Chín 201000:00(Xem: 25050)
Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về ?

Ngược xuôi trên dòng đời, đôi lúc nhớ về cội nguồn đã xa, tâm cảm kẻ lưu đày như thiền sư Tuệ Sỹ thoáng chốc bâng khuâng, ngậm ngùi như nhà thơ đã ghi lại trong thi phẩm Giấc Mơ Trường Sơn:

 Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn

 Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về


Quán trọ là nơi tạm dung của người xa xứ. Hầu hết chúng ta là những người đang sống lưu vong và các quốc gia định cư, trong ý nghĩa nào đó cũng mang tính chất của một quán trọ bên đường. Tâm cảm nầy không phải duy nhất cho người Việt nam mà hầu hết di dân, nhất là người tị nạn khắp nơi trên thế giới đều chia sẻ trạng thái tâm lý nầy. Enrico Marsias, ca sĩ Pháp gốc Hi Lạp, đã mô tả tâm trạng nầy thật tuyệt vời qua bài hát Adieu Mon Pays:

J’ai quitté mon pays

J’ai quitté ma maison

Ma vie, ma triste vie

Se traine sans raison.

 

Thế nhưng tại sao quán trọ lại ngăn nẻo về? Và bao giờ thì quán trọ hay nhà có thể trở thành tổ ấm Home, Sweet Home?

 

Khác với các cộng đồng di dân, người Việt hải ngoại là cộng đồng tị nạn, tương tự như các cộng đồng Đông Âu trước khi chế độ Liên Sô sụp đổ. Sau 30 năm định cư, phần đông người Việt đã ổn định đời sống vật chất với nhà cao cửa rộng, nhưng tổ ấm theo nghĩa văn hóa tình cảm Home, Sweet Home của thi sĩ Mỹ John Howard Payne (1791- 1852) rất phổ cập trong thời kỳ Chiến Tranh Nam Bắc Hoa Kỳ, thì mức độ thành công của chúng ta như thế nào? 


Tại các quốc gia di dân như Hoa Kỳ, Canada, Úc Đại Lợi và New Zealand, nhận định qui ước là di dân hưởng được tinh túy của hai nền văn hóa - của đất nước cội nguồn mà họ mang theo và của quốc gia định cư mà họ tiếp cận. Qui luật nào cũng có những ngoại lệ, nhưng nhìn chung, tôi không nghĩ rằng nhận định nầy phản ánh đúng với thực tế của phần đông gia đình di dân và người tị nạn, cá biệtgia đình người Việt nam

Theo nhận xét của tôi qua kinh nghiệm làm việc tại Bộ Di Trú và Văn Hóa Đa Nguyên liên bang trước kia và Hệ Thống Phát Thanh quốc gia SBS Radio hiện nay, Về Nguồn theo nghĩa duy trì truyền thống văn hóa là một khuynh hướng tự nhiên của tập thể người sinh đẻ ở nước ngoài. Về nguồn không nhất thiết chỉ đơn thuần là những chuyến đi thăm viếng du lịch quê xưa mà là hành-trình-tình-cảm-tri-thức-tái-kết với nền văn hóa cũ. Với thế hệ thứ nhất, người Việt sống trong hoài niệmnỗ lực tái tạo hình ảnh văn hóa cũ trong môi trường mới. Nơi nào có người Việt là nơi đó có Hội Chợ Tết; nơi nào có Phật tử là nơi đó có Chùa Việt namLễ Vu Lan Báo Hiếu. Trên bình diện cá nhân, người Việt nào càng có nhiều phương tiện vật chất là tư gia của họ càng có nhiều sắc thái Việt nam về mặt biểu tượng bên ngoài cho đến những trang trí bên trong như bàn thờ ông bà, gia tiên, những bức họa sơn dầu, bức tranh sơn mài trên tường và bàn ghế phòng khách.


Tiến sĩ Mandy Thomas, một nhà nhân chủng học Úc, đã nghiên cứu nhiều năm về cộng đồng Việt nam. Tôi cần nói là không phải lúc nào tôi cũng đồng ý với kết luận của tác giả, nhưng tôi chia sẻ nhận định sau đây:


“Người Việt nam [tại Úc] liên tục đối diện với vấn đề biểu dương cộng đồng với nền văn hóa đa số chính mạch (the majority culture) và làm thế nào kết hợp với kẻ khác trong ‘cộng đồng lý tưởng mơ ước’ của họ (‘their imagined community’). Qua hội chợ Tết và những lễ hội nghi thức khác, các tổ chức cộng đồng hành xử như là người thương thuyết chính giữa cộng đồng và cơ cấu chính quyền địa phương. Những tổ chức cộng đồng nầy hướng dẫn sinh hoạt văn hóa và chính trị của cộng đồng và do đó có tác động sâu rộng trong việc hình thành liên tục của bản sắc Việt nam (Vietnamese identities) (1).

Đó là về mặt tập thể. Còn về mặt cá nhân, qua nhiều cuộc tiếp xúc với người Việt định cư tại vùng Tây Sydney, Mandy Thomas nhận xét rằng đời sống quá khứ tại Việt nam của họ phản ánh sự chọn lựa nhà cửa tại Úc và nhà như là một ý niệm cũng như là vật thể trong đời sống gia đình và môi trường địa phương, là mối quan tâm chủ yếu của người Việt.


Đối với người Úc gốc Việt, nhà là một ý niệm gắn liền với quê nhà (homeland), ngôn ngữxã hội – tất cả đều phản ánh khúc xạ qua kinh nghiệm mất mát [trong quá khứ]....Đời sống được chuyển đổi từ Việt nam và sự mất mát khung trời văn hóa Việt đã khiến người Việt tái lập đời sống văn hóa Việt trong không gian Úc châu - (1)


Tôi chưa tìm thấy một khảo sát nào về mức độ hài lòng của người Việt trên căn bản tổ ấm-sweet home, sau khi đã tạo dựng được nhà cửa tại Úc hay tại Bắc Mỹ. Ngoại trừ thành phần ông bà định cư theo diện đoàn tụ gia đình (2)thành phần cha mẹ đoàn tụ với con cái sau khi con cái đã ổn định đời sống kinh tế, theo nhận xét của tôi, đa số người Việt định cư với tư cách tị nạn và lập nghiệp trở lại với hai bàn tay trắng, đều có cảm tưởng là họ đã tạo dựng được phần nào tổ ấm tại quê hương thứ hai.


Tôi nói "phần nào" là vì theo ý tôi, chúng ta không bao giờ có thể tái tạo hoàn toàn đời sống văn hóachúng ta đã mất hoặc đời sống văn hóa đương đại mà chúng ta không còn là thành phần tham dự. Vả lại, tổ ấm còn đòi hỏi một mức độ hội nhập nào đó vào môi trường chính mạch mà nhiều người thuộc thế hệ thứ nhất có thể còn gặp trở ngại tại các quốc gia định cư.

Sau những năm đầu định cư, người Việt được coi là thành công trong một cuộc thăm dò của Phân Khoa Xã Hội Học thuộc Viện Đại Học NSW, trên căn bản một định nghĩa tương đối về thành công như là sự hài lòng với chính mình. Theo định nghĩa nầy, thành phần ông bà cha mẹ đoàn tụ gia đình sau khi con cháu đã ổn định đời sống tị nạn về mặt kinh tế tài chánh, thường gặp nhiều khó khăn và không cảm thấy thoải mái với đời sống mới, vì tương quan chủ lực trong gia đình đã thay đổi và thứ bậc tình cảm theo truyền thống không còn được chấp nhận hoàn toàn như tại Việt nam trước kia.


Cũng thay đổi là vai trò của phụ nữ trong xã hội mới mà tôi gọi là giữa hai dòng văn hóa và Mandy Thomas coi là trong tình trạng in limbo (1). Theo ý tôi, truyền thống văn hóa mà người Việt nỗ lực tái tạo cho tổ ấm-sweet home phải là truyền thống tốt, thích hợp với nguyên tắc nam nữ bình quyềnbình đẳng cơ hội (3). Vào mốc điểm 15 năm định cư ấy, tôi đã có nhận xét rằng “phụ nữ Việt nam ở nước ngoài có nhiều khả năng linh động và hội nhập thành công trong môi trường [bình đẳng] xã hội mới mà không bị vong bản"(3).

Sở dĩ tình trạng bạo hành còn xảy ra trong một số gia đình Việt nam hiện nay là do nguyên tắc bình đẳng nầy không được tôn trọng.


Điểm đáng chú ý là trong cộng đồng Việt nam hải ngoại, còn một thành phần đặc biệt có khả năng bắc cầu giữa hai thế hệ – do dó tạo điều kiện cho thế hệ thứ hai về nguồnthế hệ thứ nhất hội nhập, đó là thế hệ chuyển tiếp – thế hệ một rưỡi – sinh đẻ tại Việt namtrưởng thành tại những quốc gia định cư của cha mẹ.


“Tuy kinh nghiệm định cư của người Việt ở nước ngoài không thể nói là độc nhất vô nhị, thế nhưng tiến trình định cư nầy cũng không giống như tiến trình định cư mà nhiều cộng đồng khác đã trải qua – chẳng hạn như cộng đồng Hi Lạp hoặc Italy. Trong một cách thế nào đó, cộng đồng Việt nam có thể nói là gần gu~i với cộng đồng Cuba tại Mỹ hơn là cộng đồng Trung Hoa tại Úc, bởi vì cộng đồng Việt nam và Cuba là cộng đồng tị nạn, chia sẻ cùng khát vọng tự do dân chủ cho đất nước cội nguồn. Đây là một yếu tố quan trọng trong mối dây liên hệ giữa ba thế hệ trong cộng đồng người Việt.

Thế hệ Một Rưỡi đã trải qua phần nào những năm tháng tạo dựng nhân cách ở Việt nam nên họ có khuynh hướng tìm hiểu chia sẻ những cảm nhận, suy nghĩkinh nghiệm đau thương của thế hệ đi trước...Ngược lại, thế hệ một rưỡi lại gần gũi với thế hệ thứ hai hơn là thế hệ thứ nhất có thể làm được. Trong đời sống con người bao giờ cũng có sự cách biệt giữa hai thế hệ nầy, bất kể là họ thuộc nguồn gốc văn hóangôn ngữ nào, kể cả cộng đồng chính mạch....Thế hệ thứ nhất đã "mất" một quê hương, nhưng chưa hẳn đã tìm được một quê hương mới, trong khi thế hệ thứ hai sinh đẻ ở nước ngoài và chỉ biết môi trường thổ sinh, hoặc ít nhấtthế hệ thứ hai không có những gắn bó tha thiết với đất nước cội nguồn của cha mẹ. Họ không có cảm giác đã "mất" một quê hương và không có nhu cầu tìm một quê hương mới. Thế hệ một rưỡi là thế hệ vừa "mất" một quê hương vừa tìm được một quê hương mới.” (4). 


Ông Jack Passaris, chủ tịch Hội Đồng Sắc Tộc NSW Ethnic Communities Council, thường tự hào nói với tôi rằng con gái của ông thuộc thế hệ thứ tư sinh đẻ bên ngoài lãnh thổ Hi Lạp, nhưng cô ấy vẫn có đủ vốn liếng văn hóangôn ngữ để theo học đại học tại Athens. Đây có thể là trường hợp ngoại lệ, nhưng tôi không nghĩ như vậy, vì tôi biết khá nhiều về cộng đồng Hi Lạp tại Úc. Cũøng như cộng đồng gốc Do Thái về phương diện tôn giáo, nhưng khác với cộng đồng Do Thái về mặt ngôn ngữ, người Úc gốc Hi Lạp và có lẽ người Mỹ gốc Hi Lạp cũng vậy, rất thành công trong việc duy trì tín ngưỡng, ngôn ngữ, và văn hóa của họ mà vẫn hội nhập thành công vào xã hội chính mạch tại các nước định cư.


Đến năm 2035, tức là sau 60 năm định cư, thế hệ thứ ba và thứ tư của chúng ta có còn khả năng nói tiếng Việt và hiểu văn hóa Việt hay không? Tôi không lạc quan lắm, trừ phi thế hệ thứ hai trong cộng đồng hiện nay tích cực về nguồn như là thành tố chia sẻû đặc tính văn hóa của home, sweet home. Trong mỗi gia đình, chúng ta đều có những trăn trở như nhau về việc nầy. nhưng không phải ai cũng thành công trong nỗ lực tìm một công thức dung hòa nhu cầu hội nhập dòng chính với nhu cầu duy trì ngôn ngữvăn hóa Việt nam. Bác sĩ Nguyễn Xuân Quang đã đề tặng tác phẩm mới nhất của mình cho các con sinh đẻ tại Mỹ là “thế hệ bảûo tồn Tiếng Việt Huyền Diệu nơi xứ người” (5). Thế hệ thứ hai tự họ cũng trải qua những trăn trở như vậy nên chủ đề của trại hè sinh viên Việt nam ở Adelaide, South Australia, đầu năm 2005 là “Ta Là Ai? Who Are We?” 


Nhiều công trình khảo cứu đã và đang đi tìm câu trả lời. Vicky Karaminas viết:” Nhà (home) là nơi chúng ta nhớ khi chúng ta đi xa và là nơi chúng ta trở lại sau cuộc hành trình. Nhưng đối với nhiều người, cuộc hành trình, tình trạng ngược xuôi không bao giờ chấm dứt. Nhà được liên tục tìm kiếm qua những lúc đến và lúc đi, lúc ra và lúc vào những địa điểm khác nhau – Home is what we yearn for when we are away, and what we return to after a journey. But for many, the journey, the displacement never ends: the search for home is a contant flux of arrivals and departures, exits and entries from various locations” (6).

 

Tài liệu vừa được trích dẫn là một nghiên cứu về giới trẻ cư ngụ ở vùng Tây Sydney thuộc nguồn gốc Trung Đông và Châu Á, kể cả Việt nam. Trong một cuộc nghiên cứu khác, do SBS Corporation bảo trợ, giới trẻ gốc Việt đã có phản ứng rất tích cực và rõ rệt về bảo tồn văn hóa (80% +), về thưởng thức nhạc Việt nam (80% +), về am hiểu nguồn gốc văn hóa gia đình (80% +) và coi Úc Đại Lợi là ‘nhà – home’ (60% +) (7).

 

Tuy nhiên, phản ứng tích cực ấy có vẻ như không được cụ thể hóa bằng hành động tương xứng. Tại Úc, tiếng Việt không được coi là ngôn ngữ chiến lược (như trường hợp tiếng Quan Thoại, tiếng Nhật, tiếng Bahasha Indonesia...), nên rất ít người không thuộc nguồn gốc Việt nam theo học. Còn sinh viên học sinh gốc Việt cũng không chọn học các môn Việt ngữ, Việt văn, ở mức độ đông đảo cần thiết, đến nỗi các khoa Việt Học tại nhiều Viện Đại Học Úc đã phải đóng cửa từ nhiều năm qua. Hiện nay, Victoria University ở Melbourne là viện đại học duy nhất còn giảng dạy môn Việt học. 


Tình trạng nầy cũng không khác gì ở Mỹ. Theo giáo sư Trần Chấn Trí, việc giảng dạy Việt ngữ tại University of California at Irvine đang gặp nhiều trở ngại lớn. Ngoài vấn đề cắt giảm ngân sách, thay đổi học kỳ, tiếng Việt hay văn hóa Việt dường như chưa đủ sức hấp dẫn sinh viên không phải là người Việt. (8).


Nói tóm lại, trong 30 năm qua, cộng đồng Việt nam ở nước ngoài đã vượt qua rất nhiều trở ngại vật chấttinh thần để gặt hái được thành công trong hầu hết mọi lãnh vực sinh hoạt – và thử thách văn hóa lớn lao trước mặtnỗ lực về nguồn của thế hệ thứ hai và những thế hệ kế tiếp. Nếu con cháu chúng ta còn quan tâm tìm câu trả lờihome away from home, but is it still sweet home? thì chúng ta có thể lạc quan được.


Và bài nầy xin được kết thúc với mấy vần thơ sau đây của John Howard Payne:

 "An exile from home splendor dazzles in vain;

 Oh, give me my lovely thatch’d cottage again!

 The birds singing gaily that came at my call;

Give me them with the peace of mind clearer than all.

Home, sweet home".

 

Xin trân trọng cảm ơn quí vị và xin cầu chúc Đại Hội Quốc Tế Y Nha Dược Sĩ Việt Nam Tự Do Kỳ 5 tại Sydney thành công.


(Sydney, 28 tháng 12 năm 2004)

* LS Lưu Tường Quang, AO, là Giám Đốc SBS Radio, cơ quan truyền thanh quốc gia văn hóa đa nguyên của Liên Bang Australia.

Notes:

(1) Mandy Thomas, Dreams in the Shadows – Vietnamese-Australian Lives in transition, Allen & Unwin, Sydney, 1999. (trang 122, 62, 154)

(2) Thomas T. Professor and M. Balnaves, New Land, Last Home: The Vietnamese Elderly and the Family Migration Program, Bureau of Immigration Research, Canberra, 1993.

(3) Ngọc Hân (ed.) Đặc San song ngữ Xuân Canh Ngọ, Sydney, 1990, No.2 (Hội Phụ Nữ Việt nam NSW): Phụ Nữ Việt Nam Giữa Hai Dòng Văn Hóa – Vietnamese Women Between Two Cultures by Lưu Tường Quang. (trang 4)

(4) Casula Powerhouse Arts Centre, In-Between 1.5 Generation Viet-Aust, Sydney 2002 – Lost and Found – A New Homeland: The Role and Characteristics of the 1.5 Generation by Lưu Tường Quang/ Chiều Chiều Ra Đứng Ngõ Sau: Vai TròĐặc Tính của Thế Hệ Một Rưỡi, Ngọc Hân chuyển ngữ.

(5) Migration Heritage Centre and Centre for Cultural Research, Generate: Mapping Youth Culture and Migration Heritage in Western Sydney, Sydney 2000. (trang 17)

(6) Nguyễn Xuân Quang, Tiếng Việt Huyền Diệu, Hừng Việt, Anaheim Ca., 2004.

(7) Ang, Ien Professor & others, Living Diversity – Australia’s Multicultural Future, Sydney, 2002.

(8) Nguyệt san Khởi Hành, Santa Ana, CA, số 98, tháng 12 năm 2004.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10701)
Đức Thế Tôn bảo “bình an thật sự” không cách xa, nó đang ở bên trong chúng ta, nhưng chúng ta thường không nhận ra nó.
(Xem: 8876)
Tất cả mọi loài sống là để đi tìm hạnh phúc. Bản năng gốc của mọi loài là tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 10035)
Theo lời Phật dạy, chuyển một cái xấu – ở đây là gian dối- trở thành cái tốt, tức chân thật, là chuyển nghiệp. Nhưng chuyển nghiệp như thế nào đây?
(Xem: 9968)
Trong lộ trình nương tựa nhau để tu học, mỗi người cần nhanh chóng nhận ra ai là thiện tri thức để thân gần và ai là ác tri thức để tránh xa.
(Xem: 9124)
Đã làm người và được sống, bất cứ ai cũng đều có cảm giác khoái lạc hay khổ đau. Cảm giác có thể sảng khoái hay dễ chịu hoặc không nằm trong hai điều đó.
(Xem: 10794)
Tất cả các pháp hữu vivô thường. Đây chính là lời dạy của đức Phật và được Ngài lập lại nhiều lần. Lời dạy này cũng là một trong những lời di huấn cuối cùng của Ngài.
(Xem: 14811)
Tuổi trẻ không tu, già hối hận, Thân bệnh tật, tai điếc mắt mờ, Gối mỏi lưng còng, giờ suy yếu, Cuộc đời gây tạo, bao ác nghiệp
(Xem: 11562)
Chịu đựng sự nhục nhã và lời thóa mạ là đức tính quan trọng nhất mà mỗi ngươi có thể rèn luyện, bởi vì sức chịu đựngvô cùng mạnh mẽ
(Xem: 9949)
Sống đồng nghĩa với hành trình, hành trình với hành trang và phương tiện chính mình, hành trình đến những mục đích.
(Xem: 12444)
Câu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”
(Xem: 10666)
Khi trong đầu hiện ra tình cảm về ‘Tôi’, nhiều tế bào trong nhiều vùng khác nhau của não bộ trở nên năng động cùng một lúc và làm dao động hàng ngàn các tế bào não khác.
(Xem: 10173)
Kinh sách Phật Giáo thường so sánh Đức Phật như một vị Lương Y. Điều này hiển nhiên cho thấy việc chữa trị bệnh tật là tâm điểm của Phật giáo.
(Xem: 10513)
Có nhiều người nhận lầm học Phật, hiểu đôi điều về giáo lý Đức Phật là tu rồi, đây là một sai lầm lớn trong nhận thức, vì tu và học là hai phạm trù khác nhau.
(Xem: 10443)
Theo thuyết nhà Phật, có duyên mới tạo ra nghiệp, trả nghiệp sẽ có duyên cao hơn, cứ theo thế mà thoát ra khỏi luân hồi.
(Xem: 10311)
Mỗi ác nghiệp là tờ giấy nợ Trả hiện tại hoặc trong tương lai Vay nhiều thì nợ càng nhiều Nhân quả theo ta như hình với bóng
(Xem: 9849)
Thời gian qua nhanh, tháng ngày hối hả, đời người ngắn ngủi, thoáng chốc đã già, cái chết sẽ đến, không biết về đâu?
(Xem: 9083)
Hạnh nguyện độ sinh của Bồ tát Quán Thế Âm trong cõi Ta Bà giúp cho tất cả mọi người “quán chiếu cuộc đời” để đạt được giác ngộ, giải thoát.
(Xem: 9161)
Cuộc sống viên mãn của con người cần hội đủ hai phương diện vật chấttinh thần (tâm linh). Chúng phải song hành tồn tại nhằm hỗ tương lẫn nhau, giúp con người thăng hoa cuộc sống.
(Xem: 11023)
Với hành nguyện lắng nghe tiếng khổ, để đem niềm vui xoa dịu cho chúng hữu tình nơi thế giới hành đạo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Chúng con, trên bước đường tìm cầu sự giác ngộ, cũng xin được học đòi đức tính thù diệu ấy.
(Xem: 9384)
Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới.
(Xem: 12872)
Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …
(Xem: 12389)
Ai cũng thích được tán dương, khen ngợi, ai cũng thấy dễ chịu với những lời khen, dù bản thân không đúng hoặc đúng rất ít với lời khen đó.
(Xem: 8948)
Khi được khen ta cũng chớ vội mừng và khi bị chê ta cũng chớ vội buồn. Nếu ta vội mừng hay buồn như vậy thì tâm mình rất dễ bị dao động, khi bị dao động ta sẽ bất an.
(Xem: 9363)
Từ Thứ Năm tới Thứ Hai, ngày 6 tới 10 tháng 8 năm 2015, Khóa Tu Học Phật Pháp Bắc Mỹ Lần Thứ 5 sẽ diễn ra tại Khách Sạn Town and Country Resort Hotel, Thành Phố San Diego
(Xem: 9448)
Thiền sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn cả giấy...
(Xem: 9326)
Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại.
(Xem: 8914)
Sân hậnthù oán là hai trong số những người bạn gần gũi nhất của chúng ta. Khi còn trẻ, tôi đã có một mối quan hệ rất gần gũi với giận dữ.
(Xem: 8756)
Bồ-tát Quán Thế Âm luôn hiện thân trong mọi trường hợp để tùy duyên giúp đỡ, cứu khổ cho người. Đã làm người trong trời đất, ai không một lần lầm lỗi, vấp ngã, khổ đau.
(Xem: 10073)
Giảng Pháp và thính Pháp là những Pháp sự không thể thiếu trong chương trình tu học của các tự viện đúng nghĩa.
(Xem: 8414)
Nguyên tác: The Five Trainings for Bodhichitta Resolve, Tác giả: Alexander Berzin/ Moscow, Russia; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 8081)
Khi những hiện tượng được phân tích một cách riêng lẻ như vô ngã, và những gì đã từng được phân tích trên thiền quán, đấy là nguyên nhân cho việc đạt đến hoa trái, niết bàn.
(Xem: 15224)
Đức Phật có dạy đừng tìm về quá khứ, vì quá khứ đã qua rồi, đừng tìm về tương lai, vì tương lai chưa tới, hãy an trú trong hiện tại.
(Xem: 10510)
Những câu chuyện thật chốn Thiền môn do các bậc trưỡng lão kể lại luôn luôn là những bài học hay nhất, là nguồn động lực lớn nhất cho các thế hệ mai sau noi gương ...
(Xem: 10551)
Đối với Thế Tôn sự sở hữu tài sản vật chất tiền bạc, ruộng vườn, nhà cửa…, chưa thật sự là người giàu có, sự giàu có đó vẫn nằm trong vòng lẩn quẩn của sự đau khổ, luân hồi chi phối.
(Xem: 8660)
Ai biết nỗ lực, siêng năng, tinh cần học hỏi, quyết chí vươn lên sống không ỷ lại nhờ vã người khác, thì người này nếu đầy đủ phước báu sẽ thành tựu trong nay mai.
(Xem: 8793)
Vì tự nguyện, cố nhiên họ hạnh phúc với chọn lựa của họ. Cơm ăn áo mặc không bận lòng. Ba y thô sơ, đắp đổi ngày tháng. Một bình bát dạo khắp muôn nhà.
(Xem: 8339)
Người đời khi gặp quả xấu đến, nếu không oán trời trách đất cũng đổ thừa tại gia đình người thân hay xã hội, ít ai nghĩ đến nhân quả công bằng mà sinh lòng ăn năn hối cải.
(Xem: 11850)
Theo tinh thần từ binhân bản của Phật giáo, người cư sĩ sau khi ly hôn hay người bạn đời chết đi thì có thể tái hôn bình thường.
(Xem: 10614)
Đức Phật bình đẳng giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán, không oán giận kẻ hại mình mà còn khoan dung độ lượng để họ cải tà quy chánh.
(Xem: 10382)
Ai tạo ác nghiệp thì sẽ bị đọa vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷsúc sinh. Nhất là tạo những nghiệp ác nặng nề thì chắc chắn sẽ rơi vào địa ngục.
(Xem: 13195)
Từ bi hỷ xả, nhẫn nhịn nhường là bí quyết để giúp cho mọi người sống như chiếc lá, dù có bị bão tố phong ba cuốn trôi lặn hụp, nhưng ta vẫn đủ sức vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời mà sống an nhiên tự tại trong mỗi hoàn cảnh.
(Xem: 8110)
Mỗi người sinh ra có một hoàn cảnh, sự sống hoàn toàn khác biệt nhau. Do sự chiêu cảm nghiệp báo quá khứ nên đời sống hiện tại của chúng ta có sự bất đồng trên mọi phương diện, không ai giống ai.
(Xem: 10063)
Cá ở trong lưới mà nhảy ra được, mới thật là hay. Vượt cạn lên bờ được mấy ai? Thoát khỏi cạm bẫy cuộc đời thật là khó vô cùng, nhưng người có ý chíquyết tâm cao độ sẽ làm được chuyện này.
(Xem: 8502)
Tâm giác ngộ là một thể trạng của tâm có nhiều thành phần với nó. Khi chúng ta phát tâm giác ngộ, nó có hai phương diện.
(Xem: 9606)
Chúng ta mỗi ngày quyết định không biết bao nhiêu việc và phần nhiều là những chuyện không quan trọng. Nhưng có đôi lúc, một quyết định nhỏ có thể ảnh hưởng không chỉ chính mình, mà còn...
(Xem: 10089)
Mọi người chúng ta đều than cuộc sống là đau khổ..., người nghèo có cái khổ của người nghèo, người khá giả có cái khổ của người khá giả.
(Xem: 9875)
Hãy dành ít thời gian suy nghĩ về bảy bí quyết này. Đừng gạt chúng qua một bên để làm chuyện khác, mà hãy áp dụng những bí quyết này vào cuộc sống của bạn.
(Xem: 8713)
Học để hoàn thiện chính mình là việc học suốt cả cuộc đời, chẳng thể nào được tốt nghiệp trọn vẹn, nếu ta không có đủ ý chínghị lực.
(Xem: 22191)
Nhân dáng từ bi của quý Ngài thường xuyên biểu hiện trong suốt 2 tuần qua đã biến ngôi già lam thanh tịnh này trở thành một ngôi thánh địa uy nghiêm bởi lời kinh tiếng kệ...
(Xem: 10124)
Đạo Phật có nhiều truyền thống cũng như vô lượng pháp môn tu. Nhưng dù tu theo bất cứ pháp môn nào, cách thức nào thì nội dung tu tập vẫn không ngoài Chỉ và Quán.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant