Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyện ít người biết về xá lợi Phật - Thiền sư từ VN sang đất Ngô

20 Tháng Chín 201000:00(Xem: 20520)
Chuyện ít người biết về xá lợi Phật - Thiền sư từ VN sang đất Ngô
Mở đầu là chuyện thiền sư Khương Tăng Hội từ Việt Nam chống gậy sang miền Giang Tả của Trung Quốc để truyền bá Phật pháp cách đây hơn 1.700 năm (vào năm 247 dương lịch). Ngài đến kinh đô Kiến Nghiệp của nước Ngô (là một trong ba nước chia nhau thế chân vạc thời Tam Quốc) để dựng am tranh và lập bàn thờ Phật.

Thời đó, tuy đạo Phật đã truyền vào nước Ngô song vì mới manh nha buổi đầu nên người trong nước còn ngờ vực và rất ngạc nhiên khi thấy một "ông thầy tu" xuất hiện, họ đã tâu lên với vua là Tôn Quyền rằng: "Có một người ở nước ngoài mới vào, trông dáng điệu và cách ăn mặc của người ấy khá lập dị, lạ mắt, vì thế xin nhà vua cho kiểm tra xét hỏi kỹ càng".

Nghe tâu, Tôn Quyền sai người mời Khương Tăng Hội đến gặp và hỏi: "Đạo Phật có gì linh nghiệm?". Khương Tăng Hội đáp: "Có ngọc xá lợi Phật". Tôn Quyền hỏi xá lợi là gì? Ngài giải thích, đại ý xá lợi là phần còn lại sau khi dùng lửa hỏa thiêu thân của Phật Thích Ca Mâu Ni khi ngài mới qua đời. Thân ấy là thân kim cương, không có gì làm hư hoại được, song vì lòng đại bi thương xót chúng sanh nên Phật đã dùng thần lực khiến nát thành hàng chục vạn hạt ngọc sáng đẹp li ti để lại cho đời. Ai nhìn thấy và cung kính chiêm ngưỡng, lễ bái xá lợi, người ấy sẽ được phước lớn. Chính vì vậy, sau ngày Phật tịch diệt khoảng 100 năm, vua A Dục đã tìm kiếm và phân phát xá lợi cho người khắp các phương, đồng thời ra lệnh xuất vàng bạc trong kho, quyên góp thêm của bá tánh bên ngoài, để xây tám vạn bốn nghìn tháp thờ xá lợi ở nhiều quốc gia: "Phàm việc dựng tháp cũng là nhằm giữ gìn ngọc Phật, để làm rõ thêm cho đời sau biết sự linh ứng của những gì còn sót lại từ thân kim cương bất hoại của đấng chí tôn". Tôn Quyền vẫn chưa tin hẳn, bảo Khương Tăng Hội:

- Thầy nói Phật linh ứng thì thầy hãy thử cầu Phật ban xá lợi xuống nơi đây, đem đến ta xem tận mắt. Nếu thật có xá lợi ta sẽ truyền cho dựng tháp để thờ. Còn như thầy cầu không có xá lợi tất nhiên thầy sẽ mang tội khinh dối và sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc theo phép nước của ta.

Khương Tăng Hội đồng ý mở pháp hội cầu xá lợi Phật tại kinh thành Kiến Nghiệp trước sự chứng kiến của vua tôi nhà Ngô và xin cho 7 ngày để báo kết quả. Liền đó ngài về am tranh gọi hết các pháp thuộc tức các đệ tử đã đi theo ngài từ Việt Nam sang đất Ngô thông báo: "Giáo pháp của đức Thích Cathịnh hành hoặc bị gạt bỏ ở đất Ngô này sẽ do chính kết quả của pháp hội lần này quyết định, nên các ngươi phải chí thành cầu nguyện nếu không về sau hối hận cũng vô ích". Nói rồi ngài cùng các pháp thuộc rút vào hẳn trong tịnh thất, chay tịnh cả thân lẫn tâm, nâng chiếc bình rỗng đặt lên bàn thờ, thành kính thắp hương lễ lạy nguyện cho xá lợi Phật hiện ra trong bình. Nhưng 7 ngày trôi qua không thấy ứng nghiệm, bình vẫn rỗng không. Ngài bèn xin thêm 7 ngày nữa, vẫn không hiệu quả... Tôn Quyền tỏ ý bực dọc nói: "Thật là dối gạt người khác" và định kết tội ngài. Song ngài lại xin gia hạn lần cuối nữa, thêm 7 ngày tiếp đó. Tôn Quyền cũng rộng rãi chấp thuận, y theo. Lần này, đến sẩm tối ngày thứ 7 rồi, vẫn chưa thấy động tịnh gì, Tôn Quyền muốn xử tội ngài thích đáng. Ai nấy đều lo sợ và nghĩ chắc tính mạng của ngài và các đệ tử đã được định đoạt, nhưng khi tới canh năm, lúc trời mờ mờ sáng, bỗng "nghe có tiếng leng keng, loảng xoảng trong bình, Khương Tăng Hội đến mở ra xem, thấy có xá lợi hiện ra trong đó, sáng hôm sau Khương Tăng Hội đem trình cho Tôn Quyền xem. Cả triều đều tụ lại chiêm ngưỡng và thấy ánh sáng năm màu của xá lợi chói sáng lên quanh miệng bình rất đẹp. Tôn Quyền tự tay mình nâng bình lên để trút ra chiếc mâm bằng đồng đặt sẵn. Lạ thay, xá lợi lăn tới đâu thì mâm đồng vỡ nát tới đó".

Đoạn trích trên đây không phải là lời nói cửa miệng, mà được chính các sách sử Trung Quốc ghi lại, như Cao tăng truyện của Huệ Hạo (496 - 553) hoặc Xuất tam tạng ký tập của Tăng Hựu (445 - 518), tham khảo sử sách các triều Tấn, Tống, Tề, Lương, Ngụy... Riêng Cao tăng truyện ghi lại chi tiết tiếp theo như sau: Khi thấy xá lợi trút ra lăn vỡ mâm đồng, Tôn Quyền quá đỗi kinh ngạc, nói: "Thật là điềm lành hiếm có".

Khương Tăng Hội nói thêm với Tôn Quyền: "Oai thần của xá lợi không chỉ dừng lại ở những tia sáng ngũ sắc kia đâu. Mà còn ở chỗ đem lửa đốt không cháy, lấy chày bằng kim cương đập cũng không thể nát". Tôn Quyền sai người làm thử, đặt xá lợi trên chiếc đe sắt, bảo lực sĩ cầm chày để đập, nhưng xá lợi không hề gì, mà cả đe sắt lẫn chày đều bị nứt vỡ: "Quyền tận mắt chứng kiến việc ấy nên thán phục không ngớt, truyền cho dựng tháp để thờ và lập một ngôi chùa gọi là chùa Kiến Sơ. Chỗ đất ấy về sau gọi là xóm Phật". Và đạo pháp ở Giang Tả hưng thịnh bắt đầu từ câu chuyện một thiền sư từ Việt Nam cầu nguyện cảm ứng xuất hiện ngọc xá lợi tại Trung Hoa như thế.

Khi Tôn Quyền bệnh chết năm 252, nước Ngô trải qua cuộc biến động, đến Tôn Hạo nối ngôi cha năm 264 muốn hủy báng Phật pháp, sai đem tượng vàng đào được sau hậu cung đặt ở ngoài trời, lấy nước bẩn tưới lên gọi là "tắm Phật" để đùa cợt, nhạo báng. Chỉ trong chốc lát, cả mình mẩy Hạo sưng to, bìu đái đau nhức, gào kêu suốt ngày không bớt, liền cho mời Khương Tăng Hội vào hỏi chuyện.

Nghe lời tấu trên, Tôn Hạo chùn tay lại, sai một người “có tài ăn nói lưu loát, bắt bẻ ngọn ngành” là Trương Dục đến chùa Kiến Sơ gặp Khương Tăng Hội để chất vấn về ngọc xá lợiPhật pháp. Hai người đàm đạo suốt ngày, Hội giải thíchđối đáp trôi chảy, khiến Dục tâm phục, hỏi thêm: “Sát cổng chùa có ngôi miếu thờ dâm từ trái với Phật pháp sao chưa đập phá?”. Hội đáp:

- Khi sấm sét vang dậy, sức nổ đánh sập cả ngọn núi lớn, nhưng người điếc không nghe tiếng sấm ấy, không phải vì thế mà tiếng sét bị nhỏ đi. Thưa ngài, cũng vậy, giáo lý nhà Phật rất sâu mầu, nếu có kẻ tăm tối không rõ chánh pháp thì chánh pháp vẫn không vì thế bị lu mờ theo. Nay dâm từ ở cạnh chùa, chùa không vì thế mà mất chân pháp...

Nhớ lời đáp ấy, Trương Dục đem về tâu với Tôn Hạo. Hạo ngẫm nghĩ nghĩa thâm diệu, mới quyết định không đập phá chùa tháp nữa. Khi Tôn Hạo ngã bệnh (như viết ở kỳ trước), cho người cầu đảo khắp miếu đường không lành, phải đem tượng Phật đặt lên điện lễ bái, sám hối ngày đêm và lấy nước thơm rửa tượng mấy chục lần, cơn đau mới giảm dần. Khương Tăng Hội vào cung thuyết pháp cho Hạo, đến đoạn nói người tu hành đi, đứng, nằm, ngồi (tứ oai nghi) đều nghĩ đến nỗi khổ của chúng sanh để cứu vớt, Hạo cảm động thấu tim, mới xin quy y tam bảo (là ba ngôi cao quý: Phật, pháp và tăng). Quy y được 10 ngày, bệnh lành, Tôn Hạo xuống lệnh tu sửa chùa Kiến Sơ rỡ ràng trang nghiêm hơn nữa và bảo các tôn thất quần thần phải phụng thờ chư Phật, ai nấy đều tuân theo.

Sống và truyền pháp như thế trên đất Hoa hơn 30 năm, Khương Tăng Hội đã viên tịch năm 280, để lại nhiều công trình dịch kinh, dựng chùa, xây tháp thờ xá lợi. Đến đời Đường, ngài Huyền Trang sau chuyến Tây du mang về 150 viên ngọc xá lợi Phật và rất nhiều kinh tiếng Phạn để phiên dịch sang tiếng Hán, người ta đã vẽ trên tường của Viện phiên kinh ở chùa Đại Từ Ân các dịch giả kinh Phật trước đó, trong đó có tượng Khương Tăng Hội.

Ngài là một thiền sư Việt Nam, song tác giả người Trung Quốc (như Tỉnh Mại) khi viết về ngài đã tước bỏ nguồn gốc Việt Nam (người Giao Chỉ) của ngài, để thay vào đó “quốc tịch” Trung Hoa, cụ thể viết: “Khương Tăng Hội là trưởng tử của đại thừa tướng nước Khương Cư”. Sự thật không phải như thế và nguồn gốc Việt Nam của ngài Khương Tăng Hội đã được các thiền sư cũng như nhiều nhà nghiên cứu Phật học nước ta truy nguyên, như thiền sư Thích Nhất Hạnh (Nguyễn Lang) khẳng định: “Tăng Hội chắc chắn là sinh trên đất Giao Chỉ. Cha và mẹ ông mất năm ông lên mười tuổi (...) lớn lên ông đi xuất giatu học rất tinh tiến”.

Còn học giả Lê Mạnh Thát cũng nêu rõ: “Tổ tiên Khương Tăng Hội gốc người Khương Cư (Sogdiane), nhưng đã mấy đời đến ở Ấn Độ, tới thời cha Hội vì buôn bán lại di cư sang nước ta và sinh sống tại Giao Chỉ (...). Qua các tác phẩm (của Khương Tăng Hội) để lại có nhiều dấu vết chứng tỏ Hội đã chịu ảnh hưởng truyền thống Lạc Việt một cách sâu đậm.

Một là, về mặt ngôn ngữ, hiện nay Lục độ tập kinh (một dịch bản của Khương Tăng Hội) chứa đựng nhiều cấu trúc mang ngữ pháp tiếng Việt cổ, mà ngoài lý do Hội phải dùng một nguyên bản tiếng Việt, còn có yếu tố thói quen ngôn ngữ hình thành từ chính mẹ đẻ (người Việt) của mình mới mạnh mẽ như thế để có thể lưu lại dấu ấn trong tác phẩm. Hai là, về nội dung và tư tưởng, Khương Tăng Hội đã chứng tỏ một lòng yêu mến tha thiết truyền thống văn hóa người Việt đến nỗi truyền thuyết Trăm trứng - một truyền thuyết đặc biệt Việt Nam - nói về nguồn gốc của dân tộc Việt, vẫn không bị Khương Tăng Hội cải biên”.

Sử sách ở Trung QuốcViệt Nam đều ghi chép Khương Tăng Hội là một vị sư “hiểu rõ ba tạng (Kinh, Luật, Luận của Phật giáo), xem khắp sáu kinh, thiên văn đồ vĩ, phần lớn biết hết, giỏi việc ăn nói, viết văn rành rõi”. Vậy một thiền sư, một bậc học giả lớn như Khương Tăng Hội trưởng thành từ Việt Nam (Giao Chỉ) với bản lĩnh như thế, chứng tỏ lúc ấy nước ta đã có một nền văn hóagiáo dục vững chắc như Lê Mạnh Thát kết luận: “Có thể nói Khương Tăng Hội là một thành tựu đầu tiên và xuất sắc của nền giáo dục Việt NamPhật giáo Việt Nam, khác hẳn các sản phẩm của nền giáo dục nô dịch Trung Quốc đang hoạt động mạnh mẽ vào thời đó (thế kỷ thứ 3)...”.

Khoảng 46 năm sau ngày Khương Tăng Hội qua đời, tháp thờ xá lợi do ngài dựng nên bị Tô Tuấn đốt cháy, sau được Tư không Hà Sung dựng lại và tướng Triệu Dụ đứng dưới tháp thách thức: “Ta nghe từ lâu tháp này phóng ra ánh sáng năm màu rực rỡ, ta cho đó là lời thêm thắt hư ngụy không có thật, ta không tin, nếu ngay bây giờ ta thấy ánh sáng ấy mới tin”. Chưa dứt lời, tháp xá lợi đã phóng quang bừng sáng cả chùa.

Dụ lóa mắt, rợn tóc gáy, lập tức sai dựng thêm một tháp nhỏ và vẽ hình Khương Tăng Hội lưu truyền. Hơn 700 năm sau, ở Việt Nam, chuyện lạ thứ hai lại xuất hiện khi người ta thấy một luồng ánh sáng chói chang đột nhiên phóng lên từ đất chùa Pháp Vân. Đào xuống chỗ phát nguồn sáng ấy, lấy lên được một hòm xá lợi Phật còn nguyên, với màu ngũ sắc lung linh như vừa từ lửa đỏ đem ra. Việc ấy thế nào?

Giao Hưởng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15254)
Khi thấy một con kiến đang bò, hãy thử lấy ngón tay chặn, sẽ thấy nó cuống cuồng quay lui, tìm đường chạy. Có phải vì nó cũng biết sợ, biết đau không?
(Xem: 14269)
Công bình một đề tài tranh cãi quen thuộc trong đời sống gia đình hằng ngày, thí dụ như chuyện ba đứa trẻ, Anne, Bob và Clara, cùng đòi làm chủ một cây sáo.
(Xem: 15537)
Một sớm đầu năm, bật cửa sổ, làn sương mù ùa vào cùng tia nắng đầu tiên, ta sẽ reo lên ngỡ ngàng. Một loài hoa trắng tinh khiết đang phô diễn hết vẻ đẹp trần gian.
(Xem: 14033)
Căn bệnh lớn nhất của chúng ta là muốn chiếm hữu những gì mà mình cho là tốt đẹp, và chạy trốn hoặc chống đối lại những gì mà mình không thích.
(Xem: 16562)
Quán, có nghĩa là nghĩ đến sâu sắc một cái đó… Ngồi thật im, thật vững chải, chú ý từng hơi thở vào-ra và tôi quán mình là em bé 5-6 tuổi.
(Xem: 14098)
Tàng cây có hình dáng lạ kỳ, từng nhánh đơm thêm từng nhánh mới, dường như chỉ cần có một chỗ nhỏ nhoi nào đó ở thân cây thì mầm cây tức thì nẩy nhánh, đơm cành.
(Xem: 16124)
Đá núi vô tri sao lại có ngôn ngữ? Có đấy, đá có ngôn ngữ riêng của nó, thứ ngôn ngữ mang tên tình yêu, mang tên cái đẹp và sự rắn rỏi, can cường…
(Xem: 17363)
Henry Miller là một trong vài ba thiên tài nhân loại đã đánh thức dậy thế lực mãnh liệt nhất của Lòng Đại Bi trong ý thứcvô thức của con người trên mặt đất.
(Xem: 13299)
Sự im lặng rùng rợn của Thi CaVăn Chương là cái “bất khả tư nghị” của tất cả những đỉnh cao nhất của Thi CaVăn Nghệ Nhân Loại.
(Xem: 12797)
Sự bám víu tất cả là ở trong tâm. Thay đổi tâm hành sẽ giúp ta chuyển hóa. Cảm xúc, khổ đau hay niềm vui đều chỉ là tâm tưởng.
(Xem: 14972)
Thôi, đừng than van nữa, bạn hãy nhìn lại mình đi, bạn còn có đủ đôi bàn tay, bạn còn rất trẻ, và bạn hoàn toàn có khả năng lao động để thay đổi cuộc sống của mình.
(Xem: 14495)
Nếu giữ được tâm an lạc tự tại, khi gặp phải nghịch cảnh chướng duyên sẽ là bí quyết giúp bạn chế ngự không để các ác tính giận dữ và thù hận phát khởi.
(Xem: 13643)
Hận thù không thể khắc phục và diệt trừ bởi tâm thù hận. Một người đang tức giận, nếu bạn đáp trả họ bằng sự giận dữ, kết quả rất tai hại.
(Xem: 13971)
Nếu không hiểu rõ giá trị truyền thống của các tôn giáo bạn, thì chúng ta rất khó bày tỏ lòng kính trọng các tín ngưỡng khác biệt.
(Xem: 13669)
Tôi nghĩ là điều sai lầm khi chúng ta hy vọng rằng những vấn đề khó khăn hiện nay của chúng ta có thể giải quyết bằng tiền bạc hay quyền lợi vật chất.
(Xem: 13251)
Hiện nay nhân loại sống trên trái đất này, đang phải đối đầu với một vấn đề nan giải là bằng cách nào chúng ta có thể giúp đỡ mọi người sống có hạnh phúc.
(Xem: 13293)
Trong mọi tình huống có hại cho tinh thần, tình trạng có khả năng nguy hiểm và bệnh hoạn nhất là sự lo nghĩ trường kỳ.
(Xem: 13656)
Tồn tại qua bao nhiêu thế kỷ, ngày nay bánh xe Pháp của vua A Dục với một sứ mạng mới, đã gởi đến mọi quốc gia trên thế giới bức thông điệp hòa bình của Ấn độ ngàn xưa.
(Xem: 14111)
Đức Phật dạy rằng điều lành, nghĩa là các kết quả thiện phát sinh từ những nguyên nhân tốt; và kết quả xấu chỉ có thể dẫn đến từ các nguyên nhân bất thiện.
(Xem: 14932)
Người Tây Tạng vốn có tinh thần tôn trọng cá nhân khá cao, cho nên họ sẵn sàng chấp nhậntôn kính hết thảy mọi hình thức tín ngưỡngtôn giáo.
(Xem: 16137)
Trong lúc làm kẻ khác đau khổ, con người đã tự gây đau khổ cho chính mình. Ðó là điều mê lầm hoặc muốn lầm mê của con người. Vô minh là nguồn gốc của mọi tội ác.
(Xem: 13922)
Điều quan trọng nhất trong cuộc sống của con ngườitình thương. Thiếu tình thương, con người không thể có hạnh phúc chân thật.
(Xem: 15634)
Dr. Rajendra prasad (1884-1963), là một học giả và chính trị gia Ấn Ðố nổi tiếng.
(Xem: 14828)
Dưới đây là một câu chuyện thực, rất cảm động, xảy ra tại Nhật Bản nhiều năm trước đây.
(Xem: 12422)
Bình thản, bình tĩnh, thanh thản, thanh bình, yên lặng, trầm tĩnh, trầm lặng, dịu dàng, nhẹ nhàng, ông tự lặp đi lặp lại trong đầu và tìm cho ra hết tất cả những chữ đồng nghĩa với chữ “Ruhe”
(Xem: 13518)
Khi sống quay cuồng, mải chạy đuổi theo khát vọng, chúng ta vô tình bỏ quên những hạnh phúcchúng ta đang có, đến khi hạnh phúc mất đi...
(Xem: 16956)
Nếu như có thời gian, thì bạn nên đi đâu đó, lang thang qua những miền gió cát, thiên di về những nơi xa lơ, xa lắc nào đó.
(Xem: 14192)
Nhà văn Becsnaso đã từng nói:“ Trên thế giới có biết bao nhiêu kỳ quan đẹp đẽ, nhưng trái tim của người mẹ là kỳ quan vĩ đại nhất”.
(Xem: 14084)
Anh dừng lại tiệm bán hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện. Mẹ anh sống cách chỗ anh khoảng 300km.
(Xem: 19548)
Con Bê khẻ mở mắt nhìn lên. Hai chân trước nó đưa ra tựa như muốn chắp lại. Trên khóe mắt đọng lại đôi dòng lệ nhỏ. Nó đang sám hối...
(Xem: 19713)
Bà Tú sung sướng đón nhận đạo pháp của bậc chân tu đạo hạnh với cõi lòng nhẹ nhàng, êm dịu như vừa hứng được ngọn gió mát lành...
(Xem: 17916)
Hình ảnh những bến đò, những sân ga thường gợi cho chúng ta sự linh động của đến, đi, chia tay và hội ngộ, khởi hành và điểm tới...
(Xem: 21481)
Ở cao nguyên Hùng Hoàng (Manosilā) có rất nhiều Tỳ-kheo quảng học đa văn và tiếng nói thì lớn như tiếng rống của sư tử.
(Xem: 20280)
Đồng hành không có nghĩa chỉ là đi với nhau mà còn phải nương tựa vào nhau, không phải chỉ tìm đến cái đích của chuyến đi mà còn chia sẻ với nhau trong chuyến đi.
(Xem: 23229)
Ngón tay của bậc đạo sư dùng để chỉ mặt trăng cho học trò, chứ không phải ngón tay là mặt trăng. Người học trò lại bám lấy ngón tay và cho ngón tay là mặt trăng.
(Xem: 22508)
Một hôm những chú sâu ăn chơi bất kể đối với những chiếc lá non, bất chợt lại có những chú chim sẻ xuất hiện làm cho những chú sâu khiếp đảm...
(Xem: 17134)
Nắng chiều vừa sụp tắt lúc tôi đặt chân đến chân đồi Mandalay huyễn hoặc. Trăng mùng 8 lên cao trên bầu trời trong vắt. Những bậc thềm có mái che...
(Xem: 16863)
Xã hội Ấn nói chung khá bình lặng, hiền hòa. Họ sống gần gũi với thiên nhiên và rất yêu mến thiên nhiên. Ở đây ta có thể bắt gặp công viên bất cứ nơi đâu.
(Xem: 18896)
Chuyến xe bắt đầu rời khỏi đô thị nhộn nhịp hướng về vùng cao nguyên bạc ngàn đồi núi, và điểm đến của tôi cũng không phải là quá xa, nhưng đã nhiều năm chúng tôi không gặp...
(Xem: 23927)
Với Sparky, việc học rất quan trọng nhưng cũng là điều không tưởng. Bởi nó (tiêu) tất cả các môn ở lớp 8. Nó thi rớt môn vật lý trong trường trung học...
(Xem: 21309)
Con trai tôi đang cẩn thận lau chùi mặt bếp lò, giọt nước mắt của nó hoà lẫn với nước lau cửa sổ rơi xuống bệ. Tôi nhìn quanh căn bếp tôi đã quá mệt mỏi không thể lau dọn nổi...
(Xem: 22345)
Có một cậu bé sống trong trại mồ côi từ nhỏ. Cậu bé luôn luôn ước mơ rằng mình có thể bay được như những chú chim.
(Xem: 24644)
Người chủ tiệm treo tấm bảng "Bán chó con" lên cánh cửa. Những tấm biển kiểu như vậy luôn hấp dẫn các khách hàng nhỏ tuổi. Ngay sau đó, có một cậu bé xuất hiện.
(Xem: 22043)
Thử nghĩ xem, chúng ta được gì, mất gì khi cứ luôn chạy theo những thứ mãi mãi không thuộc về mình, luôn chờ đợi những gì không dành cho mình?
(Xem: 15810)
Tuyết rơi từ vào khuya, mặt trời vừa mọc, tuyết đã ngập trắng vườn sau. Tôi đẩy thêm một khúc củi vào lò. Nhìn lửa bốc ngọn, nhớ lại mấy vần thơ cũ...
(Xem: 18829)
Mộng thân của nó là một đứa bé gái bảy tuổi. Nó nằm trên một cái bè chuối khô chảy ngược dòng trên dòng sông nhỏ. Khung cảnh thật êm đềm với hai hàng cây rủ lá ven sông.
(Xem: 17061)
Không biết Linh đã chạy qua bao nhiêu quãng đường, bao nhiêu dãy phố… khi tiếng rao đêm vẫn còn văng vẳng, cho đến lúc mọi hoạt động đều ngưng bặt...
(Xem: 18230)
Đã mấy canh giờ đi qua, vị sư già xả thiền với tiếng tằng hắng khẽ, Ngài không hề ngạc nhiên về sự hiện diện của người khách lạ trong am cốc.
(Xem: 17642)
Bình thức giấc, ngạc nhiên thấy mình nằm ngủ trong nhà thằng Phi. Chưa kịp nghĩ gì thì mùi thức ăn xộc thẳng vào mũi làm nó nghe dạ dày nhói lên quặn thắt.
(Xem: 17651)
Vậy là sau bốn năm lăn lộn ở chốn phố thị phồn hoa này, cuối cùng thì Hải cũng đã trở về quê, một chuyến về ngoài dự kiến.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant