Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dáng từ trên đồi Trại Thủy

21 Tháng Chín 201000:00(Xem: 18799)
Dáng từ trên đồi Trại Thủy


Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Ðà - Ðà Nẵng, Hải Ðức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng.

Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.

Hạnh Nguyện Phổ Hiền Tiếp Chúng Ðộ Tăng:

Từ ngày biết Ôn qua những năm ở Phật Học Viện Hải Ðức Nha Trang, Tu Viện Quảng Hương Già Lam Sài Gòn vào những thập niên 60-80, lúc nào Ôn cũng gần gũi chăm sóc học Tăng như là hạnh nguyện, hay sự sống của chính Ôn. Ôn ân cần thăm hỏi lo lắng vun bồi. Ôn nuôi dưỡng đàn hậu học như nuôi dưỡng chính mình một cách thiết tha cẩn trọng, vì Ôn thường nói: “Tre tàn măng mọc”. Do vậy Ôn mang hạnh nguyện bảo bọc đàn con cho được trưởng thành để tiếp nối con đường hoằng dương chánh pháp, báo đáp Phật ân. Hạnh nguyện này đã thể hiện qua nếp sống của Ôn, qua công đức của Ôn.

Kể từ ngày đảm nhận trọng trách trong chốn sơn môn, tòng lâm, phạm vũ, Ôn đã đem hết tâm nguyện một đời hy hiến, phụng sự để thành lập các Phật Học Viện, từ đó có người tiếp nối, Tăng già có kẻ sáng soi; làm bậc thạch trụ thiền gia, long tượng thạc đức. Một mình Ôn chống gậy đi khắp các miền để giảng dạy giáo huấn bao thế hệ học tăng từ miền Trung: Báo Quốc-Huế, Phổ Ðà-Ðà Nẵng, cho đến Phật Học Viện Trung Phần Hải Ðức Nha Trang, và cuối cùng nơi xả bỏ báo thân, thâu thần thị tịchTu Viện Quảng Hương Già Lam Sài Gòn.

Nơi nào cũng in dấu chân đi, cũng lưu giữ hình ảnh từ hòa dung dị của Ôn suốt một chặng đường dài hơn nửa thế kỷ. Dù mưa hay nắng, Ôn vẫn thong dong tự tại nơi thiền thất trên ngọn đồi Trại Thủy của Cụ Võ Ðình Dung hiến cúng, hoặc Ôn chống gậy xuống hậu tổ bên cạnh phòng Thầy Trừng San - Giám Sự Phật Học Viện và dùng cơm với quý Thầy. Ôn thường nói với Thầy Ðổng Minh, mỗi khi Thầy qua thăm viện: “Mỗi tháng Thầy cho anh em học Tăng mỗi vị vài chục nghe, để anh em có chút tiền dằn túi, kẻo tội.” Thầy Ðổng Minh cười: “Ôn lo cho mấy chú học Tăng còn hơn lo cho Ôn nữa.” Ấy là cái Hạnh Nguyện của Ôn mà suốt bao năm tháng gần gũi với Ôn mới thấy được tấm lòng chăm sóc của Ôn.

Ôn sống nơi đây trên thiền thất với Ôn Từ Quang, Ôn Từ Ðàm thật thanh thoát, tự tại. Ba hình ảnh của các bậc Kỳ túc hiếm quý của Phật Giáo Việt Nam.

Ôn nuôi học Tăng, Ôn mở Phật Học Viện đó là tâm nguyện hàng đầu của Ôn. Ôn mở các giới đàn - tuyển Phật trường, chọn người làm Phật, để truyền trao giáo pháp cho thế hệ kế thừa. Ôn nuôi dưỡng học Tăng, Ôn đào tạo Tăng tài hướng về tương lai của Ðạo pháp được hưng thịnh. Vì Ôn quan niệm: Tăng phải có tài đức để gìn giữ giềng mối của Ðạo, phát huy bản thể của Tăng già để ngôi nhà Phật pháp được vững vàng, trường lưu sáng lạn.

Ôn nói với Thầy Ðổng Minh làm kinh tế tự túc để có điều kiện nuôi dưỡng học Tăng. Kinh tế tự túc đó là các hãng: xì dầu Lá Bồ Ðề, Hương Giải Thoát, Ðèn Giác Ngộ, Thuốc tẩy Phiền Não, Xà Phòng Chân Như... Nhờ vậy mà ngày hai buổi học Tăng chỉ cắp sách đến trường học hai ban: chuyên khoa, phổ thông mà không phải lo lắng đến cái ăn, cái mặc. Tất cả đều đã có Ôn. Ân sâu, nghĩa nặng, các học Tăng kính trọng Ôn như cội tùng già, như tàng cây đại thọ che mát cả quãng đời học Tăng.

Tánh đức uy nghiêm, hạnh nguyện độ đời, những khi đàm đạo với Ôn Từ Ðàm, Ôn thường nói: “Thầy thông suốt Kinh Luận, Phật pháp hơn người nên giảng dạy, trao truyền lại cho đàn hậu học. Nhân sự của Ðạo là các học Tăng của Phật Học Viện. Mai này Phật pháp được hưng long, mạng mạch của Tăng già được kiên cố thì cũng nhờ những học Tăng hôm nay.” Mỗi khi đứng hầu quý Ôn thọ trai được nghe những lời tâm huyết cao quý này thật thấm thía. Ðấy là hạnh Phổ Hiền dấn thân hóa độ, mà nếp sống của Ôn đã thể hiện trọn vẹn hạnh Phổ Hiền này.

Nhà Ðạo Học Qua Ý Vị Thi Ca:

Ôn đã để lại cho hậu thế nhiều bài thơ chữ Hán, thơ chữ Việt, những câu đối đề tặng treo nơi các Tổ đình, Tòng Lâm ở Huế... những bài phúng điếu các bậc Tôn túc viên tịch. Tâm hồn thi kệ của Ôn được thể hiện qua những bài kệ phú pháp cho những vị đệ tử:

Phú Pháp Dự Thích Ðức Thiệu

“Dĩ Ðức Thiệu gia phong

Cổ kim như thị đồng

Pháp quang hương bất tận

Hải ấn thể hàm dung.”

Phú Pháp Dự Thích Ðức Tâm

“Ðức vi trí giả Tâm

Hà tu hướng ngoại tầm

Hữu vô thường đoạn luận

Hải tạng bất duy tâm.”

Và vị đệ tử còn hiện diện dưới mái Tu Viện Quảng Hương Già Lam hôm nay, HT Ðức Chơn, Ôn đã phú pháp:

Phú Pháp Dự Thích Ðức Chơn

“Ba trừng tâm nguyệt hiện

Nhãn ế loạn hoa sanh

Ðức Chơn tâm thường tịnh

Hải tánh tự nhiên thanh.”

Hồn thơ phong phú của Ôn, những bài thơ chữ Nho, như viết trong đời sống đạo, tại Phật Học Viện Nha Trang, kỷ niệm Phật Ðản 2005 như sau:

“Mang mang trường dạ trung

Tam Bảo vi minh đăng

Thao thao khổ hải nội

Tam Bảo vi từ hàng.”

Dịch:

“Hoang mang giữa quãng đêm dài

Này ngôi Tam Bảo là đài quang minh

Ngập trời bể khổ lênh đênh

Này ngôi Tam Bảo sanh linh thuyền từ.”

Ý chỉ của những thi kệ này, người đọc thấy được tâm tu, lòng từ của Ôn nghĩ về cuộc đời, chúng sinh nhiều khổ lụy mà dang đôi tay để cứu tế mọi loài đưa qua bờ Giác. Chỉ có ngôi Tam Bảo mới là nơi nương tựa để cho chúng sinh tu tập thoát kiếp khốn cùng. Chỉ có ngôi Tam Bảo mới là thuyền từ vớt người trên biển trầm luân, nơi dòng sông sinh tử. Ðó là ba ngôi báu cho chúng sinh quy ngưỡng, tôn thờ mà khai sáng tánh giác hiển lộ tâm tư làm ngọn đuốc cho đời mình tránh cảnh tăm tối.

Hạnh nguyện độ đời, Ôn đã bước chân theo Bồ Tát Phổ Hiền để thực hành các phương tiện, thiện xảo mà chẳng từ nan một khó khăn nào, ấy là tinh thần: “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần. Phương tiện môn trung bất xả nhất pháp.” Qua bài:

Tụng Kinh Hoa Nghiêm Cảm Tác

“Phần hương nhứt nguyện Pháp không vương

Ðại hạnh đồng tham biến cát tường

Sát hải trần thân thi diệu lực

Trầm kha chướng loại tận an khương.”

Dịch:

“Ðốt nén tâm hương trước Phật đài

Phổ Hiền hạnh cả nguyện nào sai

Hiện thân cát bụi vào muôn nẻo

Chữa bệnh trầm kha khắp mọi loài.”

Ôn đã vân du bằng đôi chân hóa độ, bằng đôi tay cứu khổ và bằng tấm lòng Từ Bi suốt một đời. Từ bấy đến nay, mỗi khi nhắc đến Ôn Già Lam, quý Thầy học Tăng ai cũng ngậm ngùi tưởng nhớ.

Ở trên là những bài thơ chữ Nho, và bây giờ là những bài thơ chữ Việt, qua bài: “Cảm Ðề Non Bộ Bản Ðồ Việt Nam” tại thiền thất Phật Học Viện Nha Trang:

“Dấn thân mây bạc giang hồ

Chạnh lòng quê Mẹ dư đồ Việt Nam

Này thắng tích nọ danh lam

Máu xương trang trải ai làm nên khung

Ðúc vun khí tiết hào hùng

Hai vai gánh nặng Quang Trung Nguyễn Hoàng

Trường Sơn một dãy hiên ngang

Càng nhìn càng ngắm muôn vàn thân yêu

Non sông gấm vóc mỹ miều

Ngàn năm văn hiến nhiễu điều giá gương

Dù cho Nam Bắc đôi đường

Ðốt lò hương nguyện bốn phương một nhà

Sớm hôm hướng nẻo Phật Ðà

“Sắc Không” tâm sự đường xa nỗi gần

Mong sao giữ vẹn mười phần

Thanh cao dáng núi, trong ngần vẻ sông

Gấm vóc gương nước tinh thần

Ðạo vàng dân tộc chiếu hồng muôn Xuân.”

Hòn non bộ đắp theo hình dáng bản đồ Việt Nam ở phía sau Thiền thất dưới rặng cây Bồ Ðề mà cứ mỗi chiều Ôn đem rau muống, rau cải cho cá Tây tượng, cho rùa ăn rồi ngồi nói chuyện với chúng giống như nói chuyện với mấy chú học Tăng làm thị giả. Ấy là tâm Từ Bi vô phân biệt của Ôn đến với mọi loài.

Ðọc bài thơ trên thấy được nỗi niềm, tâm tư của Ôn đầy ắp tình tự quê hương, dân tộc. Ôn thường tự hỏi: “Quê hương Việt Nam xinh đẹp, quê hương Việt Nam mỹ miều, biết bao thắng tích, danh lam... do ai tạo dựng, do máu xương nào trang trải, hy sinh? Ðó chính là dân tộc Việt Nam, là các bậc anh hùng liệt nữ đã đem xương máu của mình tô thắm non sông, làm tươi đẹp quê hương, giống nòi. Dòng lịch sử của quê hương dân tộc Việt Nam ngót mấy nghìn năm qua đã anh dũng, quật cường để giữ yên bờ cõi, tạo thành cái nôi nuôi lớn muôn dân. Ðồng thời dòng lịch sử dân tộc Việt Nam đã hòa quyện với nếp sống tâm linh, giáo pháp Phật Ðà để tạo dựng một nền văn hóa giác ngộ cho quê hương dân tộc Việt Nam.”

Ôn đã khuyến tấn, nguyện cầu cho con dân Việt Nam, cho Phật tử Việt Nam, cho quê hương và Ðạo pháp Việt Nam được trọn vẹn trong ý nghĩa, được thành tựu trong đời sống thanh bình hạnh phúc như những lời thơ:

“Ngàn năm văn hiến mỹ miều giá gương”

Hoặc:

“Sớm hôm hướng nẻo Phật Ðà,

“Sắc, Không” tâm sự đường xa nỗi gần”

cuối cùng:

“Gấm vóc gương nước tinh thần

Ðạo vàng dân tộc chiếu hồng muôn xuân.”

Ðây chính là hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát đem đức Từ Bi để tạo lập một thế giới an lành thanh thoát cho chúng sanh.

Ngoài những bài thơ: Viếng Lại Chùa Hương, Xuân Quý Mão Cảm Tác... Ôn còn làm những bài thi kệ mà vần điệu, ý chỉ như những bài sám để trì tụng trong các thời khóa của chùa như: Quỳ Trước Ðiện, mà hầu như các Tự Viện đều tụng đọc:

“Ðệ tử hôm nay quỳ trước điện

Chí tâm đảnh lễ đấng Từ Tôn

Ðã bao phen sinh tử dập dồn

Trôi lăn mãi trong đường lục đạo

Thế Tôn đã đinh ninh di giáo

Mà con còn đắm đuối mê say.

...

Chí phàm phu tự lực khó thành

Cầu Ðại giáo từ bi gia hộ

Dù phải chịu muôn ngàn gian khổ

Con hết lòng vì đạo hy sinh

Nương từ quang tìm đến bảo thành

Ðặng tự giác, giác tha viên mãn.”

Âm điệu thấm thía, ý vị thuần hòa, con người thấy được bản lai diện mục của mình qua lục căn, lục trần, lục thức mà tĩnh tu tam nghiệp thanh tịnh, để chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm phu thành thánh giả.

Lời thi kệ như một bản sám văn tỏa ngát hương giải thoát, làm tươi nhuận tâm thành, thanh lương trí tánh để thấy mặt mũi của mình là một cùng tử lang thang, nhưng rồi lại được tiếp nhận gia tài của Ðấng Pháp vương để tự giác, giác tha viên mãn. Tất cả đều được nội hàm trong những tánh đức Từ Bi: Tâm Như, Ðạo Giám, Trí Thủ để lưu xuất thi kệ như lời sách tấn khuyến tu cho tứ chúng.

Ngoài những thi kệ sám văn, Ôn đã làm những câu đối ý nghĩa thâm trầm, siêu thoát như những câu trong giới đàn Phật Học Viện Hải Ðức 1973 và nhiều câu khác để kính điếu các bậc Tôn Ðức:

- “Giới thọ hữu hà nan nan giả chung thân trì tịnh giới.

Ðàn tràng phi dung dị dị tại đại lực hộ hành đàn”

Dịch:

“Thọ giới không chi khó, khó vì trọn đời trì tịnh giới

Ðăng đàn đâu phải dễ, dễ thay đủ sức hộ hành đàn.”

Hoặc:

“Chúc Phật giáo chi hà xương quốc tộ miên trường vĩnh lịch Nam Sơn chi thọ.

Giới Thích tôn chi thùy phạm tòng lâm quy củ giao lưu Ðông Chấn chi đàn.”

Dịch:

“Chúc Phật Giáo lâu dài, nước nhà hưng vượng, thọ sanh Nam Sơn muôn thuở

Cầu Thích Tôn gia hộ, Ðạo pháp vinh quang, phước đầy Ðông Hải khắp nơi.”

Ðể thấy được tâm niệm đồng hành pháp lữ, trân trọng quý kính và một dạ sắt son vững như đồng, kiên cố như đá của Ôn đối với Ngài Quy Thiện, qua câu đối của Ôn:

“Tích niên pháp nhũ đồng triêm, thệ hải giả tằng minh thiết thạch.

Kim nhật đàm hoa tiên lạc, thiền lâm thị nại phong sương.”

Tâm niệm của Ôn là như vậy. Hành trạng của Ôn là như vậy. Dáng dấp của Ôn như hình ảnh của Bồ Tát Phổ Hiền trên lưng bạch tượng, trấn thủ nơi chốn thiền môn mà làm hưng long Tổ ấn.

Tâm niệm của Ôn là như vậy. Hành trạng của Ôn là như vậy. Tình tự giống nòi, con Hồng cháu Lạc Ôn luôn ấp ủ những mong nước lạc dân bình, âu ca muôn thuở qua câu đối:

“Con Hồng cháu Lạc văn hiến bốn nghìn năm nối tiếp anh hào dòng bất khuất

Cảnh Phật ngày Trời giang sơn muôn vạn thuở đề cao dân tộc chí hiên ngang.”

Và, nghe ý vị hai câu thơ Ðạo Ðời hòa quyện, tình lý bất phân mà chiêm nghiệm tinh thần giáo pháp bất nhị:

“Hồn dân tộc, mái chùa tô nét đẹp

Tiếng pháp âm, dòng nước họa vần thiêng.”

Thâm trầm, siêu thoát, nhưng gần gũi, quanh đây, dấu ấn, tích xưa dép cỏ đi về còn hiển hiện, Ôn là như vậy đó.

Hạnh Nguyện Niệm Phật Vãng Sanh:

Pháp môn của Ôn là Thiền Tịnh song tu. Tối Tịnh độ ngồi thiền. Khuya công phu lạy Phật 108, đều đặn không hề xao lãng. Bằng pháp môn tu Tịnh độ ấy mà Ôn có những vần thơ khuyên tu Tịnh Ðộ đến với học TăngPhật tử:

“Pháp môn Tịnh độ gắng tu hành

Giữ trọn niềm tin quyết vãng sanh

Bể khổ thuyền tư buồm thuận gió

Hồ trong sen ngát đất trời thanh

Mẹ hiền tựa cửa trông con dại

Cha khổ đưa tay đón kẻ thành

Cứu độ sinh linh hoằng thệ nguyện

Nhất tâm bất loạn niệm hồng danh.”

Một đời niệm Phật, lạy Phật nên tánh đức Phật, nghi dung Phật đã thể hiện trong tứ oai nghi của Ôn đến với mọi người, chúng Tăng, cỏ cây hoa lá trong các Phật Học Viện. Mỗi sáng Ôn kéo dây tưới nước cho hoa kiểng tươi tốt, quét rác lượm lá cho sân chùa sạch mát. Trong bất cứ lúc nào Ôn cũng niệm Phật hồi hướng cho tất cả chúng sinh đều được an lạc.

Ngoài những tác dịch phẩm về Kinh, Luật, Luận, Ôn còn soạn giải: Pháp Môn Tịnh Ðộ. Ý Nghĩa Tịnh Ðộ. Trì Danh Niệm Phật. Phát Nguyện Vãng Sanh Cực Lạc... Chừng ấy đủ biết là Ôn nhất tâm niệm Phật để vãng sanhphát nguyện thể chứng chơn thường của người thọ trì Kinh Pháp Hoa qua ba đức tính: Nhà Như Lai, áo Như Lai, và tòa Như Lai. Từ sự phát nguyện ấy Ôn cảm tác lời thơ:

“Một lòng kính lạy Phật Ðà

Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai

Con hằng mặc áo Như Lai

Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời.”

Sáng nay, nơi chánh điện Tu Viện Quảng Hương Già Lam rực sáng những chiếc y vàng trang nghiêm tĩnh tọa trong giờ hô canh ngồi thiền, sau đó là xướng 108 lạy Phật, âm thanh như trầm mặc, từ hòa, nhịp nhàng, thanh thoát làm khách thập phương dừng chân đứng lại lắng nghe mà lòng cảm thấy an nhiên siêu thoát với lời kinh. Ôn xướng:

“Xử thế giới như hư không

Dụ Liên hoa bất trước thủy

Tâm thanh tịnh siêu ư bỉ

Khể thủ lễ vô thượng tôn.

Tất cả đại chúng cùng hòa:

- Nhất tâm đảnh lễ vị lai tinh tú kiếp tận thập phương vô tận thế giới tam thế nhất thiết chư Phật hải hội. Bồ Tát vô lượng thánh hiền.

Cứ như vậy, 108 lạy mà gối già chẳng mỏi, lưng già không đau, thành tâm, chánh ý, nguyện được vãng sanh thượng phẩm liên trì bất thối.

Dù Ôn ở nơi Tu Viện Quảng Hương Già Lam, hay Phật Học Viện Hải Ðức Nha Trang trên đồi Trại Thủy, giờ giấc niệm Phật, lạy Phật đúng giờ nghiêm túc chẳng hề sai trái.

Ðêm nay, ngoài trời mưa tầm tã. Gió từ biển Nha Trang thổi mạnh làm dập nát lá cành cây trái. Từng chùm hoa khế lưng đồi tung bay. Không gian như đẫm ướt, thời gian như lặng chìm. Trong thiền thất, bên cạnh ngọn đèn dầu hột vịt soi bóng mờ trên hợp tợ, cạnh cửa sổ phía sau, ba hình ảnh bậc Kỳ Túc Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đang ngồi xếp bằng trên bộ phản, tay lần chuỗi hạt 18 hột mà tưởng như quý Ôn đã thể nhập cảnh giới vô dư.

California, ngày 09 tháng 12, 2008

Kính lạy Giác linh Ôn.

Cựu học Tăng Thích Nguyên Siêu

Source: thanhuugialam.com

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 53)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 46)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 64)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 87)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 171)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 200)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 215)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 195)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 223)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 261)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 232)
Chết an lành là mong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 228)
Pháp giới là vũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 430)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 256)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 367)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 298)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 287)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 265)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 372)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 371)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 486)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 360)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 622)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 389)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 421)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 581)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 491)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 412)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 717)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 459)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 518)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 461)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 461)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 478)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 481)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 407)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 536)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 872)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 896)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 735)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1082)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 548)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 516)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 595)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 617)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 593)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 588)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 755)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 653)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 796)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant