Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một nén hương lòng tiễn đưa hương linh nghệ sỹ Kim Ngọc

20 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 29763)
Một nén hương lòng tiễn đưa hương linh nghệ sỹ Kim Ngọc


Tôi không có nhiều kỷ niệm với cô Kim Ngọc trên bình diện hoạt động nghệ thuật sân khấu xã hội. Nhưng ở khía cạnh nghệ thuật sân khấu Phật giáo thì một vài kỷ niệm cũng nói lên được nhiều điều.

Nhất là một người nổi tiếng như Cô, đã sớm hòa nhập vào trang sử văn hóa nghệ thuật Phật giáo trong những tháng ngày còn khó khăn, thì đó là cả một công trình rất to lớn và mang nhiều ý nghĩa, vì nó được khởi phát từ tâm.

Ngày ấy, quan hệ của tôi chỉ gói gọn gồm cố NSND Út Trà Ôn, nghệ sĩ Út Bạch Lan, nghệ sĩ Kim Ngọc, Cô Sáu Châu, Cô Ba (Chị Chồng của Cô Kim Ngọc)…


Đây chính là những nghệ sĩ đã sớm tham gia, khơi dậy nền nghệ thuật sân khấu Phật giáo và góp phần thúc đẩy các phong trào văn nghệ Phật giáo khắp nơi nở rộ.


Đỉnh điểm đáng nhớ nhất là năm 1991.


Đây là thời gian các hoạt đông văn hóa Nghệ thuật Phật giáo được nở rộ nhiều mặt. Nhất là hai mảng Cổ Nhạc - Cải lương và Tân Nhạc.


Tôi được Thượng Tọa Thích Đồng Bổn giao nhiệm vụ phát triển và xây dựng cổ nhạc - cải lương Phật giáo. Tất cả đếu mang tính chất tiên phong nên có vấp phải rất nhiều cản ngại.


Nhưng với tâm nguyện của Thấy Đồng Bổn và sự trợ lực quý báu ban đầu của Bác Mười, Cô Út, Cô Ba, Cô Kim Ngọc, Thầy khuyên tôi cố gắng hoàn thành một vở cải lương, vì một vở cải lương sẽ quy tụ được nhiều nhân tố đóng góp hơn.


Vở cải lương Phật giáo đầu tiên được ra đời từ những tâm nguyện ấy, đó là vở “THÁI TỬ A – XÀ - THẾ”.


Vì là một công trình mang danh Phật giáo nên ai cũng đều thận trọng trong chuyên môn của mình. Do đó phần phục trang tôi phải tự vẽ luôn và giao cho vị có trách nhiệm thực hiện. Khi vẽ phục trang, ngoài ý nghĩa Phật giáo ra phần còn lại chính cô Kim Ngọc đã giúp tôi rất nhiều trong việc đánh giá tính cách nhân vật, để từ đó có ý tưởng phác họa trang phục.


Trong thời gian viết vở, Cô Kim Ngọc thường hay hỏi thăm tôi và nói cứ phân cho Cô vai nào cũng được, đừng có ngại, bởi theo cô “Đây là việc cúng dường Tam Bảo, vai nhỏ lớn gì cũng là cái tâm của mình cả”.


Dù vậy, tôi cũng cố gắng hư cấu ra hai nhân vật phù hợp với khả năng và tài nghệ của cô để cô có dịp dốc hết tài năng của mình cho vở diễn.


Lúc này Nghệ sĩ Quốc Hòa đã là bạn diễn thường xuyên của cô rồi. Tôi tìm đến nhà cô (lúc đó còn ở đường Trần Hưng Đạo) hỏi dò xem cô có thể mời nghệ sĩ Quốc Hòa cùng tham gia không.


Cô cười ha hả, vỗ vai tôi rất mạnh nhưng lại nói “Được hôn cưng?”.


Có nghĩa là Cô lo ngại có diễn chút hài vui vui trong một vở Phật giáo được không.


Tôi nói hoàn toàn không có gì cả và chính Bác Mười Út Trà Ôn nói thêm vô Cô mới an lòng chấp nhận.


Và thế là tôi viết cho nghệ sĩ Quốc Hòa vai Quan Cận Thần và Cô là Vợ Quan Cận Thần.


Hai nhân vật này chuyên chở tính đạo lý rất lớn, giúp hỗ trợ ý nghĩa đường dây câu chuyện thêm sinh động, và nhất là giúp giảm bớt tính căng thẳng vốn xuyên suốt cả vở diễn.


Dù vở diễn chỉ dừng lại ở mức thể nghiệm nhưng các nhân tố tích cực đóng góp đã cố gắnghy sinh rất nhiều. Vì là vở ban đầu, còn nhiều khiếm khuyết nhưng có thể nói cũng từ đó mà các vở sau phát triển hoàn thiện hơn.


Bên cạnh những vở Cải Lượng như vậy, còn có cả buổi biểu diễn phục vụ, dù ở đâu, xa xôi hay gần và có ảnh hưởng đôi chút giờ giấc chạy sô, Cô Kim Ngọc luôn hoan hỷ vui vẻ, chưa bao giờ nghe hoặc thấy Cô lộ một cử chỉ khó chịu nào.


Trong suốt quãng thời gian đó, tôi đã vâng lời Thầy Đồng Bổn biên tậpthực hiện 6 album Ca Cổ Phật Giáo, chương trình nào Cô cũng đều tham gia đóng góp.


Cô ca vọng cổ rất ngọt, đến nỗi khi vừa mới nghe qua băng mộc, Thầy Đồng Bổn phải gọi điện cho Cô và khen lấy khen để.


Những tháng ngày đáng nhớ ấy qua rồi. Cũng khá lâu lắm rồi. Đó cũng là thời gian tôi chưa lần gặp lại Cô, dù vẫn nghe thấy Cô trên các phương tiện truyền thông hàng ngày.


Vậy mà hôm nay Cô lại ra đi, bỏ lại sau lưng nhiều công đức còn ngập tràn trong tâm khảm của riêng tôi.


Tôi chợt nghĩ, những công đức đó chính là nhiên liệu nội tại, giúp đưa Cô đi về nơi thanh thản nhất của nẻo đạo.


Cách bày trí Linh cữu của Cô cũng nói lên được chất nhà Phật, Tiền Phật Hậu Linh, rất đúng, rất đẹp lẽ đạo.


Cô Kim Ngọc! Một người Nghệ sĩ Phật tử rất đẹp trong tâm trí tôi và cả mọi người đang hướng đến một chân trời hạnh phúc vĩnh hằng, không còn khổ đau, chẵng có oán hờn.


Như lời Cô nói vui với tôi trong một lần đi diễn “Cô ráng làm nhiều, để mai sau nếu có mất (Cô nói từ “NGỦM”) thì còn có chút đỉnh vốn liếng mà xài”.


Đúng vậy! Ngày hôm nay mọi người khóc thương tiếc Cô mà Cô thì ung dung tự tại ra đi, chẳng chút vướng bận gì cõi trấn thế. Đó há chẵng là vốn lẫn lãi - lãi quá nhiều đấy ư?


Sáng mai này tôi không có dịp được trực tiếp đưa tiễn Cô về nơi an nghĩ cuối cùng, do vậy, tôi viết đôi dòng này, xin làm nén nhang thắp lên ven đường đễ vĩnh biệt.


Mong Cô chứng tri cho lòng tôi, một người em thưở còn sum họp bên Thầy Đồng Bổn ngày nào.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 112)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 137)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 157)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 158)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 185)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 233)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 221)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 232)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 225)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 263)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 250)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 211)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 158)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 187)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 209)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 294)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 306)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 386)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 360)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 341)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 352)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 609)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 578)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 852)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 447)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 681)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 500)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 487)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 388)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 505)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 469)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 654)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 450)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 853)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 575)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 580)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 974)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 683)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 575)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 876)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 547)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 678)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 651)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 628)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 641)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 640)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 535)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 709)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1021)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1199)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant