Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một nén hương lòng tiễn đưa hương linh nghệ sỹ Kim Ngọc

20 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 29761)
Một nén hương lòng tiễn đưa hương linh nghệ sỹ Kim Ngọc


Tôi không có nhiều kỷ niệm với cô Kim Ngọc trên bình diện hoạt động nghệ thuật sân khấu xã hội. Nhưng ở khía cạnh nghệ thuật sân khấu Phật giáo thì một vài kỷ niệm cũng nói lên được nhiều điều.

Nhất là một người nổi tiếng như Cô, đã sớm hòa nhập vào trang sử văn hóa nghệ thuật Phật giáo trong những tháng ngày còn khó khăn, thì đó là cả một công trình rất to lớn và mang nhiều ý nghĩa, vì nó được khởi phát từ tâm.

Ngày ấy, quan hệ của tôi chỉ gói gọn gồm cố NSND Út Trà Ôn, nghệ sĩ Út Bạch Lan, nghệ sĩ Kim Ngọc, Cô Sáu Châu, Cô Ba (Chị Chồng của Cô Kim Ngọc)…


Đây chính là những nghệ sĩ đã sớm tham gia, khơi dậy nền nghệ thuật sân khấu Phật giáo và góp phần thúc đẩy các phong trào văn nghệ Phật giáo khắp nơi nở rộ.


Đỉnh điểm đáng nhớ nhất là năm 1991.


Đây là thời gian các hoạt đông văn hóa Nghệ thuật Phật giáo được nở rộ nhiều mặt. Nhất là hai mảng Cổ Nhạc - Cải lương và Tân Nhạc.


Tôi được Thượng Tọa Thích Đồng Bổn giao nhiệm vụ phát triển và xây dựng cổ nhạc - cải lương Phật giáo. Tất cả đếu mang tính chất tiên phong nên có vấp phải rất nhiều cản ngại.


Nhưng với tâm nguyện của Thấy Đồng Bổn và sự trợ lực quý báu ban đầu của Bác Mười, Cô Út, Cô Ba, Cô Kim Ngọc, Thầy khuyên tôi cố gắng hoàn thành một vở cải lương, vì một vở cải lương sẽ quy tụ được nhiều nhân tố đóng góp hơn.


Vở cải lương Phật giáo đầu tiên được ra đời từ những tâm nguyện ấy, đó là vở “THÁI TỬ A – XÀ - THẾ”.


Vì là một công trình mang danh Phật giáo nên ai cũng đều thận trọng trong chuyên môn của mình. Do đó phần phục trang tôi phải tự vẽ luôn và giao cho vị có trách nhiệm thực hiện. Khi vẽ phục trang, ngoài ý nghĩa Phật giáo ra phần còn lại chính cô Kim Ngọc đã giúp tôi rất nhiều trong việc đánh giá tính cách nhân vật, để từ đó có ý tưởng phác họa trang phục.


Trong thời gian viết vở, Cô Kim Ngọc thường hay hỏi thăm tôi và nói cứ phân cho Cô vai nào cũng được, đừng có ngại, bởi theo cô “Đây là việc cúng dường Tam Bảo, vai nhỏ lớn gì cũng là cái tâm của mình cả”.


Dù vậy, tôi cũng cố gắng hư cấu ra hai nhân vật phù hợp với khả năng và tài nghệ của cô để cô có dịp dốc hết tài năng của mình cho vở diễn.


Lúc này Nghệ sĩ Quốc Hòa đã là bạn diễn thường xuyên của cô rồi. Tôi tìm đến nhà cô (lúc đó còn ở đường Trần Hưng Đạo) hỏi dò xem cô có thể mời nghệ sĩ Quốc Hòa cùng tham gia không.


Cô cười ha hả, vỗ vai tôi rất mạnh nhưng lại nói “Được hôn cưng?”.


Có nghĩa là Cô lo ngại có diễn chút hài vui vui trong một vở Phật giáo được không.


Tôi nói hoàn toàn không có gì cả và chính Bác Mười Út Trà Ôn nói thêm vô Cô mới an lòng chấp nhận.


Và thế là tôi viết cho nghệ sĩ Quốc Hòa vai Quan Cận Thần và Cô là Vợ Quan Cận Thần.


Hai nhân vật này chuyên chở tính đạo lý rất lớn, giúp hỗ trợ ý nghĩa đường dây câu chuyện thêm sinh động, và nhất là giúp giảm bớt tính căng thẳng vốn xuyên suốt cả vở diễn.


Dù vở diễn chỉ dừng lại ở mức thể nghiệm nhưng các nhân tố tích cực đóng góp đã cố gắnghy sinh rất nhiều. Vì là vở ban đầu, còn nhiều khiếm khuyết nhưng có thể nói cũng từ đó mà các vở sau phát triển hoàn thiện hơn.


Bên cạnh những vở Cải Lượng như vậy, còn có cả buổi biểu diễn phục vụ, dù ở đâu, xa xôi hay gần và có ảnh hưởng đôi chút giờ giấc chạy sô, Cô Kim Ngọc luôn hoan hỷ vui vẻ, chưa bao giờ nghe hoặc thấy Cô lộ một cử chỉ khó chịu nào.


Trong suốt quãng thời gian đó, tôi đã vâng lời Thầy Đồng Bổn biên tậpthực hiện 6 album Ca Cổ Phật Giáo, chương trình nào Cô cũng đều tham gia đóng góp.


Cô ca vọng cổ rất ngọt, đến nỗi khi vừa mới nghe qua băng mộc, Thầy Đồng Bổn phải gọi điện cho Cô và khen lấy khen để.


Những tháng ngày đáng nhớ ấy qua rồi. Cũng khá lâu lắm rồi. Đó cũng là thời gian tôi chưa lần gặp lại Cô, dù vẫn nghe thấy Cô trên các phương tiện truyền thông hàng ngày.


Vậy mà hôm nay Cô lại ra đi, bỏ lại sau lưng nhiều công đức còn ngập tràn trong tâm khảm của riêng tôi.


Tôi chợt nghĩ, những công đức đó chính là nhiên liệu nội tại, giúp đưa Cô đi về nơi thanh thản nhất của nẻo đạo.


Cách bày trí Linh cữu của Cô cũng nói lên được chất nhà Phật, Tiền Phật Hậu Linh, rất đúng, rất đẹp lẽ đạo.


Cô Kim Ngọc! Một người Nghệ sĩ Phật tử rất đẹp trong tâm trí tôi và cả mọi người đang hướng đến một chân trời hạnh phúc vĩnh hằng, không còn khổ đau, chẵng có oán hờn.


Như lời Cô nói vui với tôi trong một lần đi diễn “Cô ráng làm nhiều, để mai sau nếu có mất (Cô nói từ “NGỦM”) thì còn có chút đỉnh vốn liếng mà xài”.


Đúng vậy! Ngày hôm nay mọi người khóc thương tiếc Cô mà Cô thì ung dung tự tại ra đi, chẳng chút vướng bận gì cõi trấn thế. Đó há chẵng là vốn lẫn lãi - lãi quá nhiều đấy ư?


Sáng mai này tôi không có dịp được trực tiếp đưa tiễn Cô về nơi an nghĩ cuối cùng, do vậy, tôi viết đôi dòng này, xin làm nén nhang thắp lên ven đường đễ vĩnh biệt.


Mong Cô chứng tri cho lòng tôi, một người em thưở còn sum họp bên Thầy Đồng Bổn ngày nào.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1659)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1650)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1823)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1834)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1514)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1674)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2012)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1762)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2322)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1655)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1664)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1618)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2076)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1893)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2032)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1582)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2189)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1549)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1808)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1697)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1761)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1599)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2346)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2059)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2012)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1822)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2161)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1729)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1852)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2080)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1612)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1877)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1869)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2093)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1859)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1707)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1688)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1695)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1806)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2102)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1663)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1637)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2190)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1902)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1709)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2281)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1898)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1988)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2183)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2464)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant