Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những tháng ngày Đông giá

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 15223)
Những tháng ngày Đông giá


Cà phê chậm rãi nhỏ giọt, cái màu đen đặc sánh gợi một nỗi đau nhưng nhức. Bản Serenat của F.Schubert từ góc quán cất lên, bản nhạc mà thời còn đi học anh rất thích. Nhưng có những thứ quen thuộc trong quá khứ, tình cờ gặp lại khiến người ta buồn. Anh ngồi co ro, đăm chiêu nhìn ra dòng sông. Mưa phùn giăng giăng, gió lùa từng cơn lạnh buốt. Chiều nay khi rời nhà, mẹ bảo: “Ăn bận vậy mà đi đâu? Khoác thêm áo vào chứ không sẽ bị cảm lạnh đấy.” Anh làm thinh như không hề nghe tiếng mẹ, áo quần phong phanh ra đi. Tính anh xưa nay vẫn thế, thích gì làm đó, khó ai có thể khuyên bảo được anh. Người ta nói anh có tính ngông. Anh thì chẳng để ý đến những lời bàn tán của thiên hạ, mặc họ nói sao thì nói.

Đã lâu lắm rồi anh mới có dịp ngồi lại bên bờ sông này. Mười năm trước bờ sông này rất quen thuộc với anh, nhưng hồi đó ở đây người ta chưa đống kè và lát xi măng như bây giờ, dọc bờ sông này chưa hề có một quán café nào. Dạo đó ở đây người ta còn trồng đủ loại hoa màu theo thời vụ, khi thì ngô, khi thì đậu, bờ sông luôn mượt mà và êm ả. Còn bờ sông bên kia thì hình như không có gì thay đổi. Vẫn bờ tre xanh tốt, im lìm nghiêng rũ xuống dòng sông. Ngồi bên này vẫn có thể nhìn thấy ngôi chùa cỗ có mái rêu phong, ngôi chùa mà hồi đó anh thường cùng mẹ đi đò sang đó lễ Phật. Mẹ anh có đôi lần bảo anh xuất gia ở ngôi chùa này nhưng anh im lặng chẳng nói năng gì.

Rồi anh ra đi, mặc cho mẹ cản ngăn. Anh ra đi với một nỗi buồn, còn hơn thế, đúng hơn là một nỗi uất hận. Anh thấy mọi người đang quay lưng lại với mình, xa lánh mình, đang nhìn mình bằng cặp mắt xa lạ. Họ đang thấy nơi anh có những gì đó bất bình thường. Mà đôi khi anh nghĩ mình cũng bất bình thường thật. Chính sự có mặt của anh ở cuộc đời này cũng bắt đầu từ những gì không bình thường đấy thôi! Anh là một đứa trẻ bị bỏ rơi, được nhặt về nuôi. Từ khi anh biết được điều đó thì anh nghi ngờ về tất cả mọi thứ tình cảm. Tình thương cha mẹ, tình bạn, tình yêu… tất cả đối với anh chỉ là giả dối. Ngay cả người đã sinh ra anh mà còn nhẫn tâm quăng bỏ đi thì trên đời này còn có thứ tình thương gì chân thật! Anh không kết bạn, không mở lòng ra với ai, cũng không muốn đón nhận tình thương của ai; anh im lặng, ngạo nghễ, vô cảm với cuộc đời.

Anh đứng dậy trả tiền rồi bước ra khỏi quán. Trời vẫn lất phất mưa nhưng lạnh hơn. Anh đút tay vào túi, ngẫm nghĩ một lát rồi cuốc bộ xuống bến đò. Bến sông vắng tênh. Con sông mùa này như dài và rộng hơn, mặt nước lờ mờ khói sóng. Anh chợt nhớ đến hai câu thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ thương quan hà xứ thị. Yên ba giang thượng sử nhân sầu.” Ông lái đò ngồi trên bờ chờ khách, co rúm hút thuốc. “Ông cho tôi qua sông.” - Anh nói, mắt nhìn lơ đãng. “Cậu đợi thêm lát nữa, có khách rồi qua luôn thể.” - Ông lái đò nhìn anh, vừa nhả khói vừa nói. Mười lăm phút trôi qua, anh buông lời hỏi trổng: “Biết khi nào mới có khách đây?” Ông lái đó vấn tiếp một điếu thuốc, uể oải đứng dậy, rồi vừa bước xuống đò vừa nói: “Tôi đưa một mình cậu sang vậy.” Anh bước xuống đò, cảm giác rợn lạnh lan khắp cơ thể. “Sao bây giờ khách lại vắng thế này?” - Anh hỏi. “Cách đây khoảng cây số người ta mới xây một cây cầu, nên bây giờ phần nhiều đều sang sông bằng cây cầu đó.” Ông lái đò nói và vứt điếu thuốc xuống nước. “Chèo đò đưa khách thế này thì làm sao sống nỗi?” “Thì biết làm nghề gì bây giờ!” - Ông lái đò buồn bả trả lời. Người ta để tồn tại được trên cõi đời này cũng khốn khổ thật - anh nghĩ - và lại một nỗi buồn nữa ngự trị. Đò ra giữa dòng, anh nhớ có lần cùng mẹ sang sông, bất chợt anh thốt lên câu nói thời danh của Héraclite mà anh đã đọc đâu đó: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”, và mẹ anh nói: “Cái thằng, nói gì lạ vậy, người ta tắm cả ngàn lần nữa là hai lần.” Lúc đó anh chẳng phân trần gì với mẹ, mà tính anh xưa nay có chịu phân trần điều gì cơ chứ. Kỷ niệm đó khiến anh buồn, một nỗi buồn xa vắng. Đò đến bờ bên kia, anh trả tiền, khoát tay không nhận lại tiền thối. Nhưng ông lái đò không chịu, nhất định trả lại tiền thừa. Anh không hiểu người lái đò từ chối bởi không tham tiền hay do tự ái, tự trọng. Tự dưng anh thấy hay hay, mặc lý do ông từ chối là gì. Anh chào ông rồi bước lên bờ, hướng về phía ngôi chùa mà đi.

Anh ngập ngừng một lúc rồi bước vào chùa. Tiếp anh là một vị sư còn khá trẻ, trầm tĩnh và nói năng chừng mực. Anh thấy vị này quen quen, hình như hồi cùng mẹ sang đây anh đã có gặp, nhưng lúc đó vị này còn nhỏ. Cả hai người ngồi với nhau nhưng hình như không hỏi han gì về nhau nhiều. Điều này khiến anh cảm thấy dễ chịu. Ngồi một lát, vị sư nói: “Anh có lên chùa lễ Phật không?” “Vâng” - Anh gật đầu đáp rồi đứng dậy, bước ra phía hành lang dẫn lên chánh điện.

Ngôi chánh điện hình như không có sửa sang gì. Mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn nhưng đang khoác thêm vẻ cũ kĩ của lớp bụi thời gian. Kỷ niệm chợt bùng khởi trong anh, buồn vui lẫn lộn. Anh vòng ra phía nhà tổ, khẻ rùng mình khi nhìn thấy bức ảnh của vị sư trụ trì năm xưa đang đặt trên bàn thờ. Vị sư đã qua đời! Lúc nãy vào chùa, anh đã linh cảm điều đó. Thời gian thật khốc liệt. Nó làm cho mọi vật tiến triển nhưng rồi lại đưa chúng đến chỗ tàn hoại diệt vong. Vị sư thường cười với anh giờ đã ra người thiên cổ. Thế nhưng sao thời gian không giúp anh xóa đi nỗi đau cứ âm ĩ trong cơ thể. Nỗi đau ấy không hề vơi giảm mà ngày càng như lớn lên thêm. Cha mẹ anh là ai? Tại sao họ lại vứt bỏ anh? Những câu hỏi ấy ngày càng bám riết lấy anh. Đôi khi anh tự an ủi: Mọi thứ trên đời này đều là giả tạm, quan hệ giữa cha mẹ và con cái cũng chỉ là tương đối thôi, buồn khổ làm gì. Nhưng rồi anh vẫn không dứt được những suy nghĩ đó. Anh bỏ nhà ra đi, biền biệt không trở về vì muốn quên đi thân phận. Nhưng rồi anh không thể thoát khỏi những suy nghĩ kia. Nỗi đau vẫn đè nặng lên anh, gây nhức nhối vô hạn.

Sau lần ra đi đó, anh quyết sẽ không trở về nhà nữa. Nhưng tháng rồi khi mẹ gọi điện vào bảo rằng, nếu lần này anh không về thì bà sẽ vào. Nghe giọng bà cả quyết quá anh đành phải về. Và có lẽ đây là lần đầu tiên anh chiều ý bà. Mẹ anh rất tốt với anh, nhưng anh vẫn luôn nghi ngờ về thứ tình cảm đó. Anh cứ luôn nghĩ rằng, giả sử mẹ anh có một đứa con ruột thì liệu bà có nhận anh về nuôi và có chiều chuộng anh như vậy không. Bởi vậy, anh luôn đáp lại sự chiều chuộng thương yêu của bà bằng một thái độ vô cùng hững hờ. Mẹ anh cũng biết điều đó, bà rất buồn, tuy vậy lại thương anh nhiều hơn. Nhưng đôi khi anh cũng thấy thương bà và thấy mình mang nợ bà lớn quá. Từ một người không quen biết, bà đã nhận nuôi anh, cưu mang anh bằng tình thương của một người mẹ. Anh biết bà cũng có nỗi đau của riêng bà, nhưng rồi anh lại không thể xích lại gần bà để chia sẻ, trong khi nỗi đau trong anh cứ ngày mỗi lớn dần.

Giờ thì vị sư trụ trì năm xưa đã không còn nữa. Anh thấy mình nợ ông một điều gì đó chưa trả được. Nợ một nụ cười! Đúng rồi, nợ một nụ cười. Nụ cười mà ông thường dành cho anh và mẹ anh luôn bảo đó là nụ cười từ bi. Nhưng chưa bao giờ anh đón nhận nụ cười đó, vì anh vẫn nghi ngờ về hai chữ từ bi, nghĩ rằng đời này làm gì có người từ bi thực sự! Hình ảnh của vị sư năm xưa giờ còn đó, vẫn khuôn mặt và nụ cười hiền hậu thuở nào. Anh chợt nhớ ông, thấy có lỗi với ông. Anh đã ra đi mà không đến chào ông lấy một lời. Tại sao anh lại cho đó không phải là nụ cười từ bi như mẹ bảo nhỉ? Có phải tin như vậy thì anh đỡ khổ hơn không! Giờ thì anh thèm được gặp ông để đón nhận nụ cười đó. Có thể những người sinh ra anh đã vứt bỏ anh, nhưng đời này vẫn có thể có người thương yêu anh thực sự chứ. Đôi khi có những người thân gây cho ta đau khổ nhưng cũng có những người không quen biết lại đem đến cho ta niềm vui! Cuộc sống với sự đa dạng của nó làm sao anh hiểu hết được. Anh đứng lặng người với bao suy nghĩ xáo trộn, quên mất cả việc đốt một cây nhang để thắp lên bàn thờ. “Anh có điều gì xúc động?” Tiếng của vị sư trẻ phía sau lưng đã đưa anh ra khỏi dòng suy nghĩ. Anh im lặng lắc đầu, nhưng không hề quay mặt lại. Vị sư nói: “Tôi đã nhận ra anh ngay khi anh vừa bước vào chùa. Đối với anh, mười năm chưa đủ dài để tôi quên đi được. Mà có lẽ anh cũng nhận ra tôi, phải không? Thầy tôi luôn nhắc đến anh, ông thật sự rất thương anh. Thầy tôi mất đã bốn năm rồi. Anh thắp nhang cho ông đi.” Anh im lặng một lúc rồi sụp người xuống, nước mắt bắt đầu lăn dài trên gò má khắc khổ xanh xao.

* * *

Anh thức dậy với cơn ho kéo dài. Hôm qua khi từ chùa trở về anh đã ngã bệnh vì dầm mưa. Anh đã nằm mê man từ tối hôm qua đến giờ. Mở mắt ra, anh đã thấy mẹ ngồi một bên, đôi mắt quầng thâm bởi lo lắng và buồn khổ. Anh nắm lấy tay bà, từ trong sâu thẳm cõi lòng anh đã thốt lên tiếng gọi thiêng liêng mà bấy lâu nay anh vẫn gọi một cách dè dặt: Mẹ!

Nguồn: Tập San Pháp Luân 24


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1304)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1355)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1321)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1276)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1472)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1551)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1597)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1483)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1432)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1233)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1370)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1342)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1426)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1444)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1522)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1381)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1483)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1387)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1351)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1416)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1365)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1544)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1786)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1480)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1784)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1379)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1294)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1517)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1368)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1438)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1596)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1810)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1832)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1644)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1833)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1533)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1494)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 2017)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1595)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1541)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1487)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1461)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1541)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1405)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1685)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1662)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1518)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 1537)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant