Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những tháng ngày Đông giá

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 15226)
Những tháng ngày Đông giá


Cà phê chậm rãi nhỏ giọt, cái màu đen đặc sánh gợi một nỗi đau nhưng nhức. Bản Serenat của F.Schubert từ góc quán cất lên, bản nhạc mà thời còn đi học anh rất thích. Nhưng có những thứ quen thuộc trong quá khứ, tình cờ gặp lại khiến người ta buồn. Anh ngồi co ro, đăm chiêu nhìn ra dòng sông. Mưa phùn giăng giăng, gió lùa từng cơn lạnh buốt. Chiều nay khi rời nhà, mẹ bảo: “Ăn bận vậy mà đi đâu? Khoác thêm áo vào chứ không sẽ bị cảm lạnh đấy.” Anh làm thinh như không hề nghe tiếng mẹ, áo quần phong phanh ra đi. Tính anh xưa nay vẫn thế, thích gì làm đó, khó ai có thể khuyên bảo được anh. Người ta nói anh có tính ngông. Anh thì chẳng để ý đến những lời bàn tán của thiên hạ, mặc họ nói sao thì nói.

Đã lâu lắm rồi anh mới có dịp ngồi lại bên bờ sông này. Mười năm trước bờ sông này rất quen thuộc với anh, nhưng hồi đó ở đây người ta chưa đống kè và lát xi măng như bây giờ, dọc bờ sông này chưa hề có một quán café nào. Dạo đó ở đây người ta còn trồng đủ loại hoa màu theo thời vụ, khi thì ngô, khi thì đậu, bờ sông luôn mượt mà và êm ả. Còn bờ sông bên kia thì hình như không có gì thay đổi. Vẫn bờ tre xanh tốt, im lìm nghiêng rũ xuống dòng sông. Ngồi bên này vẫn có thể nhìn thấy ngôi chùa cỗ có mái rêu phong, ngôi chùa mà hồi đó anh thường cùng mẹ đi đò sang đó lễ Phật. Mẹ anh có đôi lần bảo anh xuất gia ở ngôi chùa này nhưng anh im lặng chẳng nói năng gì.

Rồi anh ra đi, mặc cho mẹ cản ngăn. Anh ra đi với một nỗi buồn, còn hơn thế, đúng hơn là một nỗi uất hận. Anh thấy mọi người đang quay lưng lại với mình, xa lánh mình, đang nhìn mình bằng cặp mắt xa lạ. Họ đang thấy nơi anh có những gì đó bất bình thường. Mà đôi khi anh nghĩ mình cũng bất bình thường thật. Chính sự có mặt của anh ở cuộc đời này cũng bắt đầu từ những gì không bình thường đấy thôi! Anh là một đứa trẻ bị bỏ rơi, được nhặt về nuôi. Từ khi anh biết được điều đó thì anh nghi ngờ về tất cả mọi thứ tình cảm. Tình thương cha mẹ, tình bạn, tình yêu… tất cả đối với anh chỉ là giả dối. Ngay cả người đã sinh ra anh mà còn nhẫn tâm quăng bỏ đi thì trên đời này còn có thứ tình thương gì chân thật! Anh không kết bạn, không mở lòng ra với ai, cũng không muốn đón nhận tình thương của ai; anh im lặng, ngạo nghễ, vô cảm với cuộc đời.

Anh đứng dậy trả tiền rồi bước ra khỏi quán. Trời vẫn lất phất mưa nhưng lạnh hơn. Anh đút tay vào túi, ngẫm nghĩ một lát rồi cuốc bộ xuống bến đò. Bến sông vắng tênh. Con sông mùa này như dài và rộng hơn, mặt nước lờ mờ khói sóng. Anh chợt nhớ đến hai câu thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ thương quan hà xứ thị. Yên ba giang thượng sử nhân sầu.” Ông lái đò ngồi trên bờ chờ khách, co rúm hút thuốc. “Ông cho tôi qua sông.” - Anh nói, mắt nhìn lơ đãng. “Cậu đợi thêm lát nữa, có khách rồi qua luôn thể.” - Ông lái đò nhìn anh, vừa nhả khói vừa nói. Mười lăm phút trôi qua, anh buông lời hỏi trổng: “Biết khi nào mới có khách đây?” Ông lái đó vấn tiếp một điếu thuốc, uể oải đứng dậy, rồi vừa bước xuống đò vừa nói: “Tôi đưa một mình cậu sang vậy.” Anh bước xuống đò, cảm giác rợn lạnh lan khắp cơ thể. “Sao bây giờ khách lại vắng thế này?” - Anh hỏi. “Cách đây khoảng cây số người ta mới xây một cây cầu, nên bây giờ phần nhiều đều sang sông bằng cây cầu đó.” Ông lái đò nói và vứt điếu thuốc xuống nước. “Chèo đò đưa khách thế này thì làm sao sống nỗi?” “Thì biết làm nghề gì bây giờ!” - Ông lái đò buồn bả trả lời. Người ta để tồn tại được trên cõi đời này cũng khốn khổ thật - anh nghĩ - và lại một nỗi buồn nữa ngự trị. Đò ra giữa dòng, anh nhớ có lần cùng mẹ sang sông, bất chợt anh thốt lên câu nói thời danh của Héraclite mà anh đã đọc đâu đó: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”, và mẹ anh nói: “Cái thằng, nói gì lạ vậy, người ta tắm cả ngàn lần nữa là hai lần.” Lúc đó anh chẳng phân trần gì với mẹ, mà tính anh xưa nay có chịu phân trần điều gì cơ chứ. Kỷ niệm đó khiến anh buồn, một nỗi buồn xa vắng. Đò đến bờ bên kia, anh trả tiền, khoát tay không nhận lại tiền thối. Nhưng ông lái đò không chịu, nhất định trả lại tiền thừa. Anh không hiểu người lái đò từ chối bởi không tham tiền hay do tự ái, tự trọng. Tự dưng anh thấy hay hay, mặc lý do ông từ chối là gì. Anh chào ông rồi bước lên bờ, hướng về phía ngôi chùa mà đi.

Anh ngập ngừng một lúc rồi bước vào chùa. Tiếp anh là một vị sư còn khá trẻ, trầm tĩnh và nói năng chừng mực. Anh thấy vị này quen quen, hình như hồi cùng mẹ sang đây anh đã có gặp, nhưng lúc đó vị này còn nhỏ. Cả hai người ngồi với nhau nhưng hình như không hỏi han gì về nhau nhiều. Điều này khiến anh cảm thấy dễ chịu. Ngồi một lát, vị sư nói: “Anh có lên chùa lễ Phật không?” “Vâng” - Anh gật đầu đáp rồi đứng dậy, bước ra phía hành lang dẫn lên chánh điện.

Ngôi chánh điện hình như không có sửa sang gì. Mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn nhưng đang khoác thêm vẻ cũ kĩ của lớp bụi thời gian. Kỷ niệm chợt bùng khởi trong anh, buồn vui lẫn lộn. Anh vòng ra phía nhà tổ, khẻ rùng mình khi nhìn thấy bức ảnh của vị sư trụ trì năm xưa đang đặt trên bàn thờ. Vị sư đã qua đời! Lúc nãy vào chùa, anh đã linh cảm điều đó. Thời gian thật khốc liệt. Nó làm cho mọi vật tiến triển nhưng rồi lại đưa chúng đến chỗ tàn hoại diệt vong. Vị sư thường cười với anh giờ đã ra người thiên cổ. Thế nhưng sao thời gian không giúp anh xóa đi nỗi đau cứ âm ĩ trong cơ thể. Nỗi đau ấy không hề vơi giảm mà ngày càng như lớn lên thêm. Cha mẹ anh là ai? Tại sao họ lại vứt bỏ anh? Những câu hỏi ấy ngày càng bám riết lấy anh. Đôi khi anh tự an ủi: Mọi thứ trên đời này đều là giả tạm, quan hệ giữa cha mẹ và con cái cũng chỉ là tương đối thôi, buồn khổ làm gì. Nhưng rồi anh vẫn không dứt được những suy nghĩ đó. Anh bỏ nhà ra đi, biền biệt không trở về vì muốn quên đi thân phận. Nhưng rồi anh không thể thoát khỏi những suy nghĩ kia. Nỗi đau vẫn đè nặng lên anh, gây nhức nhối vô hạn.

Sau lần ra đi đó, anh quyết sẽ không trở về nhà nữa. Nhưng tháng rồi khi mẹ gọi điện vào bảo rằng, nếu lần này anh không về thì bà sẽ vào. Nghe giọng bà cả quyết quá anh đành phải về. Và có lẽ đây là lần đầu tiên anh chiều ý bà. Mẹ anh rất tốt với anh, nhưng anh vẫn luôn nghi ngờ về thứ tình cảm đó. Anh cứ luôn nghĩ rằng, giả sử mẹ anh có một đứa con ruột thì liệu bà có nhận anh về nuôi và có chiều chuộng anh như vậy không. Bởi vậy, anh luôn đáp lại sự chiều chuộng thương yêu của bà bằng một thái độ vô cùng hững hờ. Mẹ anh cũng biết điều đó, bà rất buồn, tuy vậy lại thương anh nhiều hơn. Nhưng đôi khi anh cũng thấy thương bà và thấy mình mang nợ bà lớn quá. Từ một người không quen biết, bà đã nhận nuôi anh, cưu mang anh bằng tình thương của một người mẹ. Anh biết bà cũng có nỗi đau của riêng bà, nhưng rồi anh lại không thể xích lại gần bà để chia sẻ, trong khi nỗi đau trong anh cứ ngày mỗi lớn dần.

Giờ thì vị sư trụ trì năm xưa đã không còn nữa. Anh thấy mình nợ ông một điều gì đó chưa trả được. Nợ một nụ cười! Đúng rồi, nợ một nụ cười. Nụ cười mà ông thường dành cho anh và mẹ anh luôn bảo đó là nụ cười từ bi. Nhưng chưa bao giờ anh đón nhận nụ cười đó, vì anh vẫn nghi ngờ về hai chữ từ bi, nghĩ rằng đời này làm gì có người từ bi thực sự! Hình ảnh của vị sư năm xưa giờ còn đó, vẫn khuôn mặt và nụ cười hiền hậu thuở nào. Anh chợt nhớ ông, thấy có lỗi với ông. Anh đã ra đi mà không đến chào ông lấy một lời. Tại sao anh lại cho đó không phải là nụ cười từ bi như mẹ bảo nhỉ? Có phải tin như vậy thì anh đỡ khổ hơn không! Giờ thì anh thèm được gặp ông để đón nhận nụ cười đó. Có thể những người sinh ra anh đã vứt bỏ anh, nhưng đời này vẫn có thể có người thương yêu anh thực sự chứ. Đôi khi có những người thân gây cho ta đau khổ nhưng cũng có những người không quen biết lại đem đến cho ta niềm vui! Cuộc sống với sự đa dạng của nó làm sao anh hiểu hết được. Anh đứng lặng người với bao suy nghĩ xáo trộn, quên mất cả việc đốt một cây nhang để thắp lên bàn thờ. “Anh có điều gì xúc động?” Tiếng của vị sư trẻ phía sau lưng đã đưa anh ra khỏi dòng suy nghĩ. Anh im lặng lắc đầu, nhưng không hề quay mặt lại. Vị sư nói: “Tôi đã nhận ra anh ngay khi anh vừa bước vào chùa. Đối với anh, mười năm chưa đủ dài để tôi quên đi được. Mà có lẽ anh cũng nhận ra tôi, phải không? Thầy tôi luôn nhắc đến anh, ông thật sự rất thương anh. Thầy tôi mất đã bốn năm rồi. Anh thắp nhang cho ông đi.” Anh im lặng một lúc rồi sụp người xuống, nước mắt bắt đầu lăn dài trên gò má khắc khổ xanh xao.

* * *

Anh thức dậy với cơn ho kéo dài. Hôm qua khi từ chùa trở về anh đã ngã bệnh vì dầm mưa. Anh đã nằm mê man từ tối hôm qua đến giờ. Mở mắt ra, anh đã thấy mẹ ngồi một bên, đôi mắt quầng thâm bởi lo lắng và buồn khổ. Anh nắm lấy tay bà, từ trong sâu thẳm cõi lòng anh đã thốt lên tiếng gọi thiêng liêng mà bấy lâu nay anh vẫn gọi một cách dè dặt: Mẹ!

Nguồn: Tập San Pháp Luân 24


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1401)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1817)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1571)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1344)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1636)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2155)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1899)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1262)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1442)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1435)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1723)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1481)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1344)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1487)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1430)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1755)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1453)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1414)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1430)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1499)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1687)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1587)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1525)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1404)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1493)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1206)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1969)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1387)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1539)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2902)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1541)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1734)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1588)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2033)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1573)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1775)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1975)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2166)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1638)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2606)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1705)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1885)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1846)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1610)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2355)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1790)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1843)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1718)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2090)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2063)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant