Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những tháng ngày Đông giá

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 15039)
Những tháng ngày Đông giá


Cà phê chậm rãi nhỏ giọt, cái màu đen đặc sánh gợi một nỗi đau nhưng nhức. Bản Serenat của F.Schubert từ góc quán cất lên, bản nhạc mà thời còn đi học anh rất thích. Nhưng có những thứ quen thuộc trong quá khứ, tình cờ gặp lại khiến người ta buồn. Anh ngồi co ro, đăm chiêu nhìn ra dòng sông. Mưa phùn giăng giăng, gió lùa từng cơn lạnh buốt. Chiều nay khi rời nhà, mẹ bảo: “Ăn bận vậy mà đi đâu? Khoác thêm áo vào chứ không sẽ bị cảm lạnh đấy.” Anh làm thinh như không hề nghe tiếng mẹ, áo quần phong phanh ra đi. Tính anh xưa nay vẫn thế, thích gì làm đó, khó ai có thể khuyên bảo được anh. Người ta nói anh có tính ngông. Anh thì chẳng để ý đến những lời bàn tán của thiên hạ, mặc họ nói sao thì nói.

Đã lâu lắm rồi anh mới có dịp ngồi lại bên bờ sông này. Mười năm trước bờ sông này rất quen thuộc với anh, nhưng hồi đó ở đây người ta chưa đống kè và lát xi măng như bây giờ, dọc bờ sông này chưa hề có một quán café nào. Dạo đó ở đây người ta còn trồng đủ loại hoa màu theo thời vụ, khi thì ngô, khi thì đậu, bờ sông luôn mượt mà và êm ả. Còn bờ sông bên kia thì hình như không có gì thay đổi. Vẫn bờ tre xanh tốt, im lìm nghiêng rũ xuống dòng sông. Ngồi bên này vẫn có thể nhìn thấy ngôi chùa cỗ có mái rêu phong, ngôi chùa mà hồi đó anh thường cùng mẹ đi đò sang đó lễ Phật. Mẹ anh có đôi lần bảo anh xuất gia ở ngôi chùa này nhưng anh im lặng chẳng nói năng gì.

Rồi anh ra đi, mặc cho mẹ cản ngăn. Anh ra đi với một nỗi buồn, còn hơn thế, đúng hơn là một nỗi uất hận. Anh thấy mọi người đang quay lưng lại với mình, xa lánh mình, đang nhìn mình bằng cặp mắt xa lạ. Họ đang thấy nơi anh có những gì đó bất bình thường. Mà đôi khi anh nghĩ mình cũng bất bình thường thật. Chính sự có mặt của anh ở cuộc đời này cũng bắt đầu từ những gì không bình thường đấy thôi! Anh là một đứa trẻ bị bỏ rơi, được nhặt về nuôi. Từ khi anh biết được điều đó thì anh nghi ngờ về tất cả mọi thứ tình cảm. Tình thương cha mẹ, tình bạn, tình yêu… tất cả đối với anh chỉ là giả dối. Ngay cả người đã sinh ra anh mà còn nhẫn tâm quăng bỏ đi thì trên đời này còn có thứ tình thương gì chân thật! Anh không kết bạn, không mở lòng ra với ai, cũng không muốn đón nhận tình thương của ai; anh im lặng, ngạo nghễ, vô cảm với cuộc đời.

Anh đứng dậy trả tiền rồi bước ra khỏi quán. Trời vẫn lất phất mưa nhưng lạnh hơn. Anh đút tay vào túi, ngẫm nghĩ một lát rồi cuốc bộ xuống bến đò. Bến sông vắng tênh. Con sông mùa này như dài và rộng hơn, mặt nước lờ mờ khói sóng. Anh chợt nhớ đến hai câu thơ của Thôi Hiệu: “Nhật mộ thương quan hà xứ thị. Yên ba giang thượng sử nhân sầu.” Ông lái đò ngồi trên bờ chờ khách, co rúm hút thuốc. “Ông cho tôi qua sông.” - Anh nói, mắt nhìn lơ đãng. “Cậu đợi thêm lát nữa, có khách rồi qua luôn thể.” - Ông lái đò nhìn anh, vừa nhả khói vừa nói. Mười lăm phút trôi qua, anh buông lời hỏi trổng: “Biết khi nào mới có khách đây?” Ông lái đó vấn tiếp một điếu thuốc, uể oải đứng dậy, rồi vừa bước xuống đò vừa nói: “Tôi đưa một mình cậu sang vậy.” Anh bước xuống đò, cảm giác rợn lạnh lan khắp cơ thể. “Sao bây giờ khách lại vắng thế này?” - Anh hỏi. “Cách đây khoảng cây số người ta mới xây một cây cầu, nên bây giờ phần nhiều đều sang sông bằng cây cầu đó.” Ông lái đò nói và vứt điếu thuốc xuống nước. “Chèo đò đưa khách thế này thì làm sao sống nỗi?” “Thì biết làm nghề gì bây giờ!” - Ông lái đò buồn bả trả lời. Người ta để tồn tại được trên cõi đời này cũng khốn khổ thật - anh nghĩ - và lại một nỗi buồn nữa ngự trị. Đò ra giữa dòng, anh nhớ có lần cùng mẹ sang sông, bất chợt anh thốt lên câu nói thời danh của Héraclite mà anh đã đọc đâu đó: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”, và mẹ anh nói: “Cái thằng, nói gì lạ vậy, người ta tắm cả ngàn lần nữa là hai lần.” Lúc đó anh chẳng phân trần gì với mẹ, mà tính anh xưa nay có chịu phân trần điều gì cơ chứ. Kỷ niệm đó khiến anh buồn, một nỗi buồn xa vắng. Đò đến bờ bên kia, anh trả tiền, khoát tay không nhận lại tiền thối. Nhưng ông lái đò không chịu, nhất định trả lại tiền thừa. Anh không hiểu người lái đò từ chối bởi không tham tiền hay do tự ái, tự trọng. Tự dưng anh thấy hay hay, mặc lý do ông từ chối là gì. Anh chào ông rồi bước lên bờ, hướng về phía ngôi chùa mà đi.

Anh ngập ngừng một lúc rồi bước vào chùa. Tiếp anh là một vị sư còn khá trẻ, trầm tĩnh và nói năng chừng mực. Anh thấy vị này quen quen, hình như hồi cùng mẹ sang đây anh đã có gặp, nhưng lúc đó vị này còn nhỏ. Cả hai người ngồi với nhau nhưng hình như không hỏi han gì về nhau nhiều. Điều này khiến anh cảm thấy dễ chịu. Ngồi một lát, vị sư nói: “Anh có lên chùa lễ Phật không?” “Vâng” - Anh gật đầu đáp rồi đứng dậy, bước ra phía hành lang dẫn lên chánh điện.

Ngôi chánh điện hình như không có sửa sang gì. Mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn nhưng đang khoác thêm vẻ cũ kĩ của lớp bụi thời gian. Kỷ niệm chợt bùng khởi trong anh, buồn vui lẫn lộn. Anh vòng ra phía nhà tổ, khẻ rùng mình khi nhìn thấy bức ảnh của vị sư trụ trì năm xưa đang đặt trên bàn thờ. Vị sư đã qua đời! Lúc nãy vào chùa, anh đã linh cảm điều đó. Thời gian thật khốc liệt. Nó làm cho mọi vật tiến triển nhưng rồi lại đưa chúng đến chỗ tàn hoại diệt vong. Vị sư thường cười với anh giờ đã ra người thiên cổ. Thế nhưng sao thời gian không giúp anh xóa đi nỗi đau cứ âm ĩ trong cơ thể. Nỗi đau ấy không hề vơi giảm mà ngày càng như lớn lên thêm. Cha mẹ anh là ai? Tại sao họ lại vứt bỏ anh? Những câu hỏi ấy ngày càng bám riết lấy anh. Đôi khi anh tự an ủi: Mọi thứ trên đời này đều là giả tạm, quan hệ giữa cha mẹ và con cái cũng chỉ là tương đối thôi, buồn khổ làm gì. Nhưng rồi anh vẫn không dứt được những suy nghĩ đó. Anh bỏ nhà ra đi, biền biệt không trở về vì muốn quên đi thân phận. Nhưng rồi anh không thể thoát khỏi những suy nghĩ kia. Nỗi đau vẫn đè nặng lên anh, gây nhức nhối vô hạn.

Sau lần ra đi đó, anh quyết sẽ không trở về nhà nữa. Nhưng tháng rồi khi mẹ gọi điện vào bảo rằng, nếu lần này anh không về thì bà sẽ vào. Nghe giọng bà cả quyết quá anh đành phải về. Và có lẽ đây là lần đầu tiên anh chiều ý bà. Mẹ anh rất tốt với anh, nhưng anh vẫn luôn nghi ngờ về thứ tình cảm đó. Anh cứ luôn nghĩ rằng, giả sử mẹ anh có một đứa con ruột thì liệu bà có nhận anh về nuôi và có chiều chuộng anh như vậy không. Bởi vậy, anh luôn đáp lại sự chiều chuộng thương yêu của bà bằng một thái độ vô cùng hững hờ. Mẹ anh cũng biết điều đó, bà rất buồn, tuy vậy lại thương anh nhiều hơn. Nhưng đôi khi anh cũng thấy thương bà và thấy mình mang nợ bà lớn quá. Từ một người không quen biết, bà đã nhận nuôi anh, cưu mang anh bằng tình thương của một người mẹ. Anh biết bà cũng có nỗi đau của riêng bà, nhưng rồi anh lại không thể xích lại gần bà để chia sẻ, trong khi nỗi đau trong anh cứ ngày mỗi lớn dần.

Giờ thì vị sư trụ trì năm xưa đã không còn nữa. Anh thấy mình nợ ông một điều gì đó chưa trả được. Nợ một nụ cười! Đúng rồi, nợ một nụ cười. Nụ cười mà ông thường dành cho anh và mẹ anh luôn bảo đó là nụ cười từ bi. Nhưng chưa bao giờ anh đón nhận nụ cười đó, vì anh vẫn nghi ngờ về hai chữ từ bi, nghĩ rằng đời này làm gì có người từ bi thực sự! Hình ảnh của vị sư năm xưa giờ còn đó, vẫn khuôn mặt và nụ cười hiền hậu thuở nào. Anh chợt nhớ ông, thấy có lỗi với ông. Anh đã ra đi mà không đến chào ông lấy một lời. Tại sao anh lại cho đó không phải là nụ cười từ bi như mẹ bảo nhỉ? Có phải tin như vậy thì anh đỡ khổ hơn không! Giờ thì anh thèm được gặp ông để đón nhận nụ cười đó. Có thể những người sinh ra anh đã vứt bỏ anh, nhưng đời này vẫn có thể có người thương yêu anh thực sự chứ. Đôi khi có những người thân gây cho ta đau khổ nhưng cũng có những người không quen biết lại đem đến cho ta niềm vui! Cuộc sống với sự đa dạng của nó làm sao anh hiểu hết được. Anh đứng lặng người với bao suy nghĩ xáo trộn, quên mất cả việc đốt một cây nhang để thắp lên bàn thờ. “Anh có điều gì xúc động?” Tiếng của vị sư trẻ phía sau lưng đã đưa anh ra khỏi dòng suy nghĩ. Anh im lặng lắc đầu, nhưng không hề quay mặt lại. Vị sư nói: “Tôi đã nhận ra anh ngay khi anh vừa bước vào chùa. Đối với anh, mười năm chưa đủ dài để tôi quên đi được. Mà có lẽ anh cũng nhận ra tôi, phải không? Thầy tôi luôn nhắc đến anh, ông thật sự rất thương anh. Thầy tôi mất đã bốn năm rồi. Anh thắp nhang cho ông đi.” Anh im lặng một lúc rồi sụp người xuống, nước mắt bắt đầu lăn dài trên gò má khắc khổ xanh xao.

* * *

Anh thức dậy với cơn ho kéo dài. Hôm qua khi từ chùa trở về anh đã ngã bệnh vì dầm mưa. Anh đã nằm mê man từ tối hôm qua đến giờ. Mở mắt ra, anh đã thấy mẹ ngồi một bên, đôi mắt quầng thâm bởi lo lắng và buồn khổ. Anh nắm lấy tay bà, từ trong sâu thẳm cõi lòng anh đã thốt lên tiếng gọi thiêng liêng mà bấy lâu nay anh vẫn gọi một cách dè dặt: Mẹ!

Nguồn: Tập San Pháp Luân 24


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1489)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 1937)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1764)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 1889)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1479)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2066)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1436)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1678)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1586)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1652)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1472)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2222)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 1917)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 1857)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1691)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2005)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1623)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1770)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 1978)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1514)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1762)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1732)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 1976)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1747)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1604)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1575)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1590)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1674)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 1956)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1543)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1507)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2030)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1784)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1593)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2137)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1783)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1860)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2056)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2324)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2352)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 1887)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2324)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1694)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1722)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2055)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2584)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1480)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1445)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1604)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1433)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant