Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lục đạo thần quang

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 17764)
Lục đạo thần quang

Dưới bóng râm của cây phượng tím trong sân trường Đại học, hai sinh viên, một nam, một nữ đang giúp nhau ôn bài. Bỗng nhiên, người nữ ngước nhìn đôi chim sẻ ríu rít trên cành cao, gương mặt nàng chợt ủ dột. Người nam nhận ra ngay, lên tiếng hỏi:

- Sao vậy?


- Ơ... A ...

- Đừng trả lời theo kiểu tiểu thuyết là “bụi bay vào mắt” nhé!

Người nữ biết không thể giấu bạn nhưng nàng sẽ không nói rõ điều bất an trong lòng mà sẽ chỉ chia sẻ cảm nghĩ, biết đâu bạn nàng sẽ mở cho nàng một lối đi. Nghĩ thế, nàng thở mạnh một hơi dài rồi nói bâng quơ:

- Em không nhớ đã đọc ở đâu câu Tổ Lâm Tế nói rằng “Lục đạo thần quang chưa từng bao giờ vắng mặt”. Anh hiểu câu đó thế nào?

Biết bạn sẽ vòng vo nên người nam liền giải thích:

- Anh nghĩ Tổ nói Lục đạoLục căn đó.

- Lục căn là sáu cửa ải của đầu mối tạo nghiệp sao lại là lục đạo được?

Không biết nàng thực sự không hiểu hay muốn đào sâu điều gì, người nam cứ giữ tâm an nhiên trả lời:

- Thiện còn chứa ác, có còn hàm không thì sao lục căn lại chẳng thể là lục đạo? Có lúc nào mắt, tai, mũi, lưỡi, khẩu, ý rời khỏi ta không? Cảnh hiện ra là mắt thấy, tiếng vọng lên là tai nghe, hương thoảng tới là mũi ngửi... và cảm thọ khởi lên sau khi thấy, nghe, ngửi... là vì ta để căn qua lăng kính phân biệt mới kết luận đẹp xấu, hay dở. Nếu khi ta thấy, nghe, ngửi, mà chỉ nhận biết đơn thuần bản chất đối tượng thì ta sẽ không bị đồng hóa với đối tượng.

Nàng thở dài:

- Làm sao khi đối cảnh mà tâm không động được?

- Ấy, lẽ đạo dễ mà khó là ở ngay chỗ đó. Sở dĩ chúng ta đối cảnh động tâm là vì ta quen huân tập như thế rồi nên tâm thức lúc nào cũng sẵn sàng khởi niệm phân biệt. Muốn tâm thức đi chỗ khác chơi để lục căn ghi nhận được thuần khiết bản chất đối tượng thì chúng ta phải tập, phải sửa những thói quen đã bám rễ đó. Tu là sửa. Dễ hay khó tùy thuộc công lựcquyết tâm của người muốn sửa.

- Tâm thức vốn vô hình, sửa đã khó, anh lại bảo hắn đi chỗ khác chơi là đi đâu? Tâm thức tuy vô hình nhưng có đó, vì nếu không có, ai làm việc phân biệt? Nếu ta sửa thành công, nghĩa là tâm thức sẽ thất nghiệp, thì nó đi đâu?

Chàng thong thả gấp sách lại. Học gì nỗi nữa với cô bạn rắc rối thế này! Nàng tưởng chàng bí. Nhưng không, chàng điềm tĩnh phản công:

- Anh chàng tâm thức này rất tội! Khi đã thất nghiệp rồi là lập tức vô gia cư. Đúng thế, anh chàng không còn chỗ trụ, bèn tự biến mình, nhẹ như tơ, thoắt một sát-na, tâm thức biến mất; hay nói khác đi, khi căn làm chủ được mình để chỉ nhận chân bản chất đối tượng thì thức hòa vào mênh mông, bát ngát, thức không còn hiện hữu trong thời gian, không gian nữa! Những gì có mặt trong không gian, thời gian thì còn quẩn quanh với sinh diệt; ngược lại cái đã thoát ra ngoài không gian, thời gian mới có thể hùng tráng đi ngang ba cõi mà không bị Mất-Còn, Sinh-Tử trói buộc.

Nàng cúi đầu, trầm ngâm. Chàng bồi thêm để mong kéo nàng ra khỏi “điều gì đó” đang khiến nàng phiền não. Chàng chỉ lên chùm phượng tím ngay trước mặt, hoa và lá đang lay động trước gió và gió ấy đang làm rơi dăm cánh hoa tàn:

- Này, em nhìn xem, gió đang làm rụng hoa, rơi lá nhưng cây phượng thì vẫn hiên ngang, lẫm liệt thế này, cây phượng đâu có rơi, đâu có chết vì nó biết nguồn nhựa xanh tươi đang luân lưu trong tự thân. Dẫu cho đến khi nào thân mục, rễ khô, cây phượng cũng có chết đâu! Cây phượng lại thành đất và đất lại nuôi cây mà! Thân tứ đại của ta cũng không khác. Khi ta an trú được trong tự thể bất sinh bất diệt của mình như cây phượng thì ta cũng an nhiên nhìn vui buồn, thành bại, xấu đẹp, giàu nghèo trôi qua, như cây phượng đang nhìn hoa rơi, lá rụng mà nó vẫn vui vẻ, an nhiên cho chúng ta bóng mát. Em thua cây phượng hả???

Chàng bất chợt cao giọng khi hỏi như thế vì chàng quyết tâm quật ngã giặc phiền não đang tấn công nàng. Quả nhiên, đang nghe chàng “từ bi thuyết pháp”, bỗng nhiên bị giáng một đòn như ngài Huệ Khả đi cầu đạo, bị Tổ Đạt Ma quát lớn “Đem cái tâm bất an của ngươi ra đây ta an cho” là lập tức ngộ đạo ngay. Tiếc thay, chàng không là Tổ Đạt Ma và nàng cũng không phải Huệ Khả nên câu hỏi gay gắt của chàng chỉ đủ làm nàng giật mình. Và tệ hại hơn, sau khi giật mình, nó còn như lời mắng mỏ, chạm vào vết thương đang mưng mủ. Đau quá, nàng òa lên khóc!

Chẳng những không là Tổ Đạt Ma, chàng còn mù tịt không dỗ dành nên cứ ngồi thừ ra, nhìn nàng khóc! Ấy thế mà lạ thay, chàng không cảm thấy bứt rứt chút nào, chỉ lặng lẽ nhìn. Còn nàng thì khóc như lâu lắm chưa được khóc, đôi vai rung rung theo từng nhịp thổn thức, nước mắt nước mũi tèm lem khiến nàng luôn nâng vạt áo lên chấm chấm, lau lau...

Cứ thế, chàng ngồi nhìn. Và nàng ngồi khóc.

Chàng là người nhìn. Và nàng là đối tượng bị nhìn.

Dẫu nàng là bạn, nhưng chàng không bị bi thương của nàng cuốn hút. Chàng chỉ đang ghi nhận thực thể trước mắt là nàng đang ngồi khóc. Thế thôi! Đây là Pháp Chiếu Kiến kỳ diệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, an trú trong thiền tập trước ngoại cảnh...

Tình thế bất thần đảo ngược.

Khi nhận ra ánh sáng tươi vui đang lan tỏa trên tóc, trên mắt, trên trán, trên cả toàn thân chàng, nàng chợt im bặt, ngừng khóc.

Và bây giờ nàng ngồi nhìn chàng.

Như con đò chao đảo giữa bão táp đại dương vừa tìm về tới bến sông êm, nàng từ tốn, từng bước thấy mình.

Nàng nhìn niềm đau đang dày xéo tâm can như đang nhìn kẻ lạ. Nàng và niềm đau là hai biệt thể. Niềm đau không làm nàng đau được nữa vì nàng không hòa mình làm một với nó như dăm phút trước đây. Niềm đau chỉ còn là vật bị nàng quán chiếu. Nàng đang nhìn rõ mặt mũi nó như nhìn những con múa rối trình diễn. Nó là diễn viên, nàng là khán giả. Tuồng này dứt sẽ tới tuồng khác. Khán giả này ra về, khán giả khác sẽ đến. Đến và Đi nối tiếp không ngừng, nên nói Đến mà không nơi đến; nói Đi mà không nơi đi, chỉ có CÁI THẤY đến, đi, là vẫn đó.

Với nhãn căn, chỉ mở mắt ra là lập tức thấy cảnh vật quanh ta, có hoa là thấy hoa, có bướm là thấy bướm, không cần vận dụng một suy nghĩ quanh co nào. Chính vì sự kiện “tất nhiên” như thế nên ta thường lầm tưởng cái ta thấy là do nhờ con mắt của thân tứ đại; nhưng không phải, vì khi ta ngưng thở, thân còn nằm đó với đầy đủ tay chân mắt mũi nhưng mắt không thấy được nữa. Vậy “cái thấy tất nhiên” kia không phải do con mắt của thân tứ đại mà có thì cái thấy đó từ đâu?

Quán chiếu tới đây, nàng cực kỳ xúc động. Nếu cái thấy không do nhục nhãn mà thấy thì cái nghe cũng không do nhục nhĩ mà nghe, vậy chúng là gì? Từ đâu? Phải chăng chúng đã TỰ CÓ nên không sinh diệt theo thân tứ đại? Vì tự có nên chúng chẳng từ đâu đến cũng chẳng sẽ về đâu. Chúng vĩnh hằng và Vĩnh Hằng là sự sống luôn luôn có mặt trong tự thân ta.

Còn gì nghi ngờ nữa, cái không sinh không diệt, không đến không đi, không trong không ngoài, không sạch không dơ... lại luôn hiện hữu trong suốt lưu ly không là PHẬT TÁNH thì là gì?

Lòng nàng chợt òa vỡ sự mầu nhiệm của Bản Thể Chân Như.

Sự chứng nghiệm này quá lớn lao, vượt qua sức chịu đựng của nàng. Nàng lay vai chàng, lay thật mạnh bằng hết sức của mình để hấp tấp hỏi:

- Anh! Cái gì đây? Em đang cảm thấy cái gì đây?

Trong khi chàng im lặng mỉm cười thì nàng vội vã kể hết, kể tỉ mỉ suốt chặng quán chiếu vừa qua. Hình như chặng đường đó chỉ có mấy phút, mấy giây hay là đã trôi suốt kiếp quá khứ, hiện tại, vị lai của nàng?

Lòng họ hướng về Đạo, nghĩ về nhau thành khẩn quá, tới mức Tâm vừa Truyền Tâm mà họ không hay. Họ chỉ cảm thấy vô cùng hân hoan, cất tiếng cười trong vắt như thủy tinh khi hồi chuông rung báo giờ vào lớp rộn rã vang khắp sân trường.

Niềm đau nào mà không tan theo????

Nguồn: Tập San Pháp Luân 21


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 916)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1236)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 704)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 677)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 750)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 763)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 744)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 726)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 883)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 769)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 926)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 929)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 854)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 863)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 805)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 951)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 882)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 828)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 915)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 839)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 788)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 891)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 818)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1076)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 853)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 940)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1082)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1559)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1095)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1160)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1040)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 912)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 860)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 883)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 739)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1420)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1294)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1257)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1201)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1325)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1247)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1374)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1279)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1136)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1199)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1248)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1232)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1355)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1251)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant