Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật giáo Việt Nam - đạo ca đi cùng năm tháng

24 Tháng Chín 201000:00(Xem: 15259)
Phật giáo Việt Nam - đạo ca đi cùng năm tháng


blank
Ấn phẩm ca khúc Phật giáo Việt Nam được xuất bản năm 1960 - Hiện đang là ấn phẩm cổ nhất về ca khúc này còn được lưu giữ tại nhà của nhạc sĩ Lê Cao Phan

Có một ca khúc đã đi vào tâm thức của bao thế hệ Tăng Ni, Phật tử Việt Nam hơn nửa thế kỷ. Và cũng chính ca khúc ấy giờ đây chính là đạo ca của GHPGVN như nguyện vọng của không biết bao trái tim vì đạo, vì đời. Đó chính là ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời năm 1951 trong một hoàn cảnh đặc biệt và đáng nhớ. Trải qua nhiều biến đổi của PGVN, âm hưởng trầm hùng và trang nghiêm vẫn cứ vang mãi mà tác giả của nó giờ đã bước sang tuổi hơn 87.

Người nhạc sĩ tài hoa mang tên Lê Cao Phan

Sinh ra từ vùng đất Quảng Trị khói lửa nhưng oai hùng, như bao nhiêu người khác, nhạc sĩ Lê Cao Phan thừa hưởng sẵn có trong mình những tố chất bẩm sinh của một con người tài hoa, có năng khiếu trên nhiều lĩnh vực. Bên cạnh đó, được xuất thân trong một gia đìnhtruyền thống Nho học nề nếp, tuy là một giáo viên nhưng với trí tuệ sắc bén, nhạc sĩ Lê Cao Phan không ngừng trau giồi tri thức về giáo dục mà cả về nghệ thuật. Đặc biệt, khi lớn lên, ông lại chọn cho mình con đường phụng sự tổ chức GĐPT, trở thành một Huynh trưởng GĐPT cao niên và sau này là một Phật tử lão thành. Từ năm 1951, Đại hội Gia đình Phật hóa phổ tổ chức tại chùa Từ Đàm, Huế, nhất trí đổi danh xưng thành Gia đình Phật tử cho đến ngày nay và đã cử ông đảm trách Trưởng ban Hướng dẫn GĐPT tỉnh Thừa Thiên kiêm Ủy viên Văn nghệ Ban Hướng dẫn GĐPT Trung Phần. Trong ông có nhiều khả năng thiên phú về âm nhạc, hội họa, văn họa và dịch thuật. Về âm nhạc, ông đã sáng tácấn hành hàng mấy chục tác phẩm. Song song việc chơi các loại đàn như piano, guitar, harmonica (khẩu cầm), ông còn đánh đàn tranh, đàn nguyệt… Ngoài ra, ông sáng tác khá nhiều ca khúc trong các tập nhạc đã được xuất bản khá lâu nhưng đến giờ vẫn còn mang dấu ấn: Chim mất con, Tiếng gà gáy sáng, Trăng sáng đồi sim Phật giáo Việt Nam v.v... Về hội họa, ông cũng đã có những họa phẩm đặc sắc được tổ chức triển lãm bốn phòng tranh sơn dầu trước năm 1975. Trên lĩnh vực điêu khắc, ông cũng đã tự nghiên cứu học hỏi, ngoài các tượng đã tạc cho người thân trong gia đình và bạn bè, vào mùa Pháp nạn năm 1963, ông đã điêu khắc tượng Bồ tát Thích Quảng Đức đã tự thiêu để bảo vệ Dân tộc và Đạo pháp. Bức tượng đó hiện giờ đang được lưu giữ ở nước ngoài.

Với trình độ Hán ngữ vững vàng, nhạc sĩ Lê Cao Phan đã cảm tác nhiều bài thơ chữ Hán, không những thế, năm 1974, ông đã dịch Truyện Kiều sang thơ vần tiếng Pháp (Hixtoire de Kiều) do Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội xuất bản vào năm 1991 và được UNESCO tài trợ và đưa vào bộ Sưu tập Tác phẩm tiêu biểu.

Tiếp đến, năm 1980 ông dịch Truyện Kiều sang thơ vần tiếng Anh do NXB Văn Nghệ TP.HCM xuất bản vào năm 1996 và cũng được UNESCO tài trợ và đưa vào bộ Sưu tập Tác phẩm tiêu biểu. Vào năm 2000, Nhà Xuất bản Văn Học đã cho in cuốn Ức Trai thi tập do ông dịch 105 bài thơ chữ Hán sang thơ vần Việt - Anh - Pháp.

Nay đã gần bước sang tuổi 87 nhưng trông ông vẫn còn phương phi, khỏe mạnh và khá bận rộn với những dự án mình còn dang dở. Hàng ngày, ông vẫn lên lịch làm việc cho riêng mình mặc dù không còn đi ra ngoài nhiều, chỉ quanh quẩn nơi căn phòng đơn giản với bao nhiêu là sách nằm trên con đường Nơ Trang Long - Q.Bình Thạnh.

Khúc nhạc thiêng

Trong vô vàn tác phẩm âm nhạc của nhạc sĩ Lê Cao Phan, nhất là các tác phẩm âm nhạc Phật giáo, ca khúc Phật giáo Việt Nam ra đời như là một sự kết tinh trọn vẹn nhất cho tấm lòng của ông đối với đạo pháp. Vào thượng tuần tháng 5 năm 1951, nhân dịp Đại hội lịch sử Phật giáo Bắc - Trung - Nam tổ chức tại chùa Từ Đàm, ông đã sáng tác bài hát này với tất cả sự nhiệt thành để chào mừng Đại hội. Và cũng chính ông chứ không ai khác đã đứng ra cầm nhịp điều khiển cho tốp huynh trưởng và đoàn sinh GĐPT đồng ca bài hát này trong buổi lễ khai mạc Đại hội làm cho chư vị tôn đức cùng các đại biểu vô cùng hân hoan xúc động.

lecaophan.gif

Nhạc sĩ Lê Cao Phan

Nói về cảm giác khi ấy, ông điềm đạm cho rằng việc hoàn thành ca khúc là chuyện bình thường của một nhạc sĩ làm công việc sáng tác, nhưng bài hát này đã được hoàn thành trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt của Phật giáo và cất lên tiếng nói cũng như ước vọng của nhiều người nên có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Ý nghĩa đó được thể hiện ngay trong thời gian diễn ra Đại hội thống nhất Phật giáo ba miền Bắc - Trung - Nam mà một đoạn hồi ký của cố Huynh trưởng cấp Dũng Nguyễn Xuân Quyền có ghi lại như sau: “Ngày khai mạc Hội nghị, sau buổi lễ bạch Phật, chư Tăngđại biểu được mời ra đứng trước tiền đường điện Phật, sau buổi lễ bạch Phật, toàn thể đoàn sinh GĐPT sắp hàng trước chùa. Anh Võ Đình Cường trình bày lời giới thiệu xong, anh huynh trưởng điều khiển chương trình hô nghiêm, các em bắt tay chào rồi hát bài ca Sen Trắng. Lời ca vừa dứt thì bài chúc từ được đọc lên. Bó hoa dâng lên hội nghị, Hòa thượng nhận bó hoa xong thì bên mặt sân, một nhóm các em đứng trước micro hát bài Phật giáo Việt Nam. Chư tôn Tăng già, các đại biểutoàn thể hội hữu đều vui mừngngạc nhiên về bài chúc từ và bài hát đầy ý nghĩa, trang nghiêm…”.

Kể từ khoảnh khắc đó, đi đâu người ta cứ nghe vang vọng mãi những ca từ hùng tráng biểu tượng cho sức sống của Phật giáo trên mảnh đất hình chữ S này. Ca từ ấy vượt cả không gianthời gian, lan truyền đi nhanh chóng trong và ngoài nước trở thành linh hồn của bao thế hệ tin yêu Phật giáo. Đặc biệt, trong phong trào đấu tranh Phật giáo trước sự đàn áp khốc liệt của chính quyền Sài Gòn kỳ thị tôn giáo, nơi nào có hình ảnh xuống đường của Tăng Ni, Phật tử, sinh viên, học sinh thì nơi đó ca khúc này được cất lên.

Có lẽ nhờ ca từ đơn giản, dễ hiểu, tiết tấu mạnh theo thể loại hành khúc thể hiện một không khí trang nghiêm mà khi tập qua một lần bài Phật giáo Việt Nam nhiều người mau chóng thuộc lòng nhất là các em nhỏ đoàn sinh GĐPT. Từ đó có rất nhiều câu chuyện vui liên quan đến bài hát mà cố Huynh trưởng Nguyễn Hữu Huỳnh là một ví dụ. Khi ông vào Nam thành lập đơn vị GĐPT đầu tiên tại Sài Gòn, ông đã phải hướng dẫn các em đoàn sinh mọi thứ từ sinh hoạt chuyên môn, kiến thức Phật pháp đến trò chơi. Khi tập hát thì các em thuộc nhanh nhất là bài Phật giáo Việt Nam và một vài ca khúc sinh hoạt khác. Nhưng không biết ông tập ấn tượng như thế nào mà một lần đến sinh hoạt với các em tại số nhà 31 Nguyễn Thông, vừa bấm chuông cửa các em ở phía trong đã ồ lên: “Ông Phật giáo Việt Nam đã đến rồi.” Qua đó mới thấy sức lan tỏa của bài hát này.

Mãi vọng một bài ca

Dù bài Phật giáo Việt Nam đã trở nên quá nổi tiếng nhưng không phải ai cũng biết và nhớ đến nhạc sĩ Lê Cao Phan, người đã “sinh” ra tác phẩm tinh thần bất hủ này. Có người còn bảo ông đã chết như viên cảnh sát trong một câu chuyện chính ông là người đối diện trực tiếp xảy ra vào năm 1968. Một lần khi đạp xe đi ngang Công viên Tao Đàn (TP.HCM), thấy đông người đứng hát bài Phật giáo Việt Nam, ông định vào nhưng bị viên cảnh sát đứng gác ngăn lại, không cho vào và thông báo rất ngây ngô: “Người ta đang hát bài quốc ca của Phật giáo!”. Nghe vậy, ông liền hỏi viên cảnh sát về tác giả bài thì được đáp: “Bài hát đó là của ông Lê Cao Phan nhưng hình như ông ấy đã mất rồi. Bài hát hay quá mà!”. Cười sảng khoái, ông lấy trong túi ra mấy cái danh thiếp trao cho viên cảnh sát thì từ đó mọi việc mới vỡ lẽ.

BẢO THIÊN

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1204)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 933)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1254)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 718)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 689)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 761)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 770)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 753)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 748)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 901)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 782)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 941)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 944)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 872)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 876)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 813)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 962)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 895)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 835)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 924)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 846)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 806)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 903)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 837)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1099)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 867)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 951)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1098)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1571)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1110)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1182)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1056)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 920)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 867)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 912)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 758)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1438)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1314)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1276)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1215)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1332)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1281)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1419)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1297)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1163)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1206)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1265)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1250)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1363)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant