Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiếng Đàn Của Vị Tu Sĩ

28 Tháng Chín 201000:00(Xem: 19823)
Tiếng Đàn Của Vị Tu Sĩ

Thầy Minh Ký là một người lập dị khác đời. Mọi người đều nói về thầy như vậy, dù chẳng ai biết nhiều về thầy. Hai năm trước khi Hoà Thượng Viện Chủ về tịnh tu và cho tu bổ lại ngôi Bảo Điện trên núi, thì thầy cũng tìm đến xin tá túc trong hang đá ngay dưới chân núi.

Thầy sống đời ẩn dật lặng lẽ giữa chốn non xanh nước biếc, quanh năm chỉ áo vải nâu sòng, đầu trần chân đất. Và hầu như không giao thiệp tiếp xúc với ai, nên chẳng mấy ai quan tâm đến sự có mặt của thầy ở đây. Hằng ngày thầy giam mình trong ngôi thạch thất, mọi người qua lại chỉ nghe tiếng gõ mõ tụng kinh. Có khi thầy ra bên ngoài ngồi tham thiền nhập định trên mấy ghềnh đá cheo leo bên sườn núi. Thỉnh thoảng thầy cũng lên chùa phụ làm những công việc lặt vặt như bửa củi, trồng cây, hái thuốc….và ở lại dùng ngọ với các chú Tiểu. Đôi khi Thầy cũng có công việc phải đi đây đó vài ngày, hoặc ra ngoài Thị Trấn cách vài cây số. Khi về thì quãy đầy tay nãi nào là gạo muối lương khô…

Xung quanh ngôi thạch thất, thầy có trồng dăm loài hoa kiểng, ít cây ổi mận, đu đủ… Ngày tháng trôi qua, cây trái đã trở nên xum xuê tươi mát, những chậu hoa cũng lấm tấm điểm một vài bông đỏ vàng rực rỡ. Mấy chú tiểu đi qua cứ tấm tắc khen. Thế là Thầy gọi vào hái trái cây xuống cho. Khi mấy chú ngỏ ý muốn gởi tiền cho Thầy uống trà, thì Thầy khoát tay nói:

_ Mấy chú cứ tự nhiên… thầy trồng cây trái cho vui, chứ đâu phải thiếu thốn hay cần bạc tiền gì!

Nghe nói Thầy là người Thành Phố, từng là sinh viên một trường Đại Học Kinh Tế có tiếng. Đẹp trai, con nhà giàu học giỏi….không hiểu sao tự dưng lại từ bỏ tất cả để sống khắc khổ tu hành, an bần lạc đạo. Và cũng nghe đâu hồi trước Thầy thường thích sống đời nghệ sĩ lang bạt kỳ hồ, không chịu sự câu thúc bó buộc. Tuy vậy từ ngày về núi, Thầy chỉ chuyên tu mà không màng đến những chuyện thị phi nhân ngã bên ngoài.

Nhưng rồi …một hôm Thầy bất ngờ đem về một cây đàn tranh treo trước cửa Tịnh Thất. Mấy chú Tiểu đi ngang qua tò mò xúm lại xem, Thầy bèn lấy đàn xuống gảy cho nghe. Có chú thích quá xin theo học đàn thì thầy chỉ cười. Chuyện đến tai Hoà Thượng, người gọi Thầy lên bảo:

_ Thầy là người tu hành sao lại còn chơi đàn… nhất là ở chốn núi non yên tịnh này, quả là điều không thích hợp chút nào.

_ Bạch Hoà Thượng… con đem cây đàn về với mục đích là tạo nhân duyên để hướng dẫn các em nhỏ đến chùa. Dân ở đây dù lam lũ, nhưng đôi khi rảnh rỗi họ cũng muốn đến chùa nghe kinh cho thư thả tâm hồn. Con thiết nghĩ…mình mượn tiếng đàn để dạo lên những baì nhạc đạo, những câu niệm Phật cũng là giúp mọi người thông hiểu giáo lý Phật Pháp, xây dựng cho họ một đời sống tâm linh tốt đẹp, đó cũng là một phương cách hoá duyên.

Trước những lập luận nghe có vẻ hợp lý của Thầy, Hoà Thượng chỉ nói:_ Thầy có ý như vậy cũng được, phương tiện hoá sanh thì có nhiều, cũng chẳng thể câu thúc vào một việc gì. Duy có điều không nên cho mấy chú Tiểu sa đà theo học đàn hát. Hơn nữa thầy cũng đừng quá chủ quan, nếu chuyển hoá đời không khéo thì sẽ bị đời chuyển lại đó.

Thế là hằng đêm đám trẻ con quanh vùng tụ tập lại quanh tịnh thất để nghe thầy nói đạo, giảng pháp. Rồi thầy gảy đàn, dạy cho chúng hát và niệm Phật theo tiếng đàn. Chúng thuộc nhanh các bài nhạc đạo, yêu thích câu niệm Phật qua tiếng đàn lảnh lót nhịp nhàng. Lâu ngày tiếng đàn và phong cách sống cởi mở của Thầy lan xa đến cả xóm chợ. Thỉnh thoảng nhiều thanh niên thanh nữ trong Thị Trấn rủ nhau đến để cùng thầy đàn hát nói chuyện. Ngôi Thạch thất im vắng bỗng trở nên sinh động vui tươi giữa những câu chuyện đời đạo thân tình ý vị.

_Bạch Hoà Thượng! Người cho gọi con lên có gì dạy ạ?

Vẻ mặt Hoà Thượng trông nghiêm nghị khác thường, nhưng người chỉ từ tốn nói:

_ Có Bà Tư đây muốn nói chuyện với Thầy.

Bà Tư - chủ hãng nước đá ngoài Thị Trấn - Một Phật tử thuần thành vẫn hay lui tới cúng dường chùa. Thầy Minh Ký chỉ biết vậy thôi chứ chưa từng nói chuyện tiếp xúc với Bà. Thầy ngồi nghe Bà nói chuyện… tưởng chừng như câu chuyện về một ai khác. Nó giống như một pho tiểu thuyết mà hồi xưa Thầy đã từng đọc qua đâu đó. Cô Trâm- con gái rượu của Bà được coi là hoa khôi ở vùng này. Thời gian gần đây có nhiều người thuộc hạng danh vọng giàu sang đến dạm hỏi. Nhưng cô Trâm một mực cự tuyệt hết thảy. Gia đình bắt ép. Thế là cô bỗng phát bịnh không chịu ăn uống thuốc thang gì cả. Tra gạn mãi, Cô mới thú nhận. Gần một năm nay cô cùng chúng bạn đến Tịnh thất của thầy để học đàn hát theo các em nhỏ. Cô thích hát, mê mẩn trong những cung bậc du dương trầm ấm. Tiếng đàn trong những đêm trăng huyền ảo, đã thổi vào tâm hồn Cô biết bao mộng tưởng xuân thì. Cô yêu trăng, yêu đàn và mến mộ luôn người đánh đàn. Sự thương kính tưởng chừng như trong sáng ấy đã dần dần đổi màu…khi trái tim Cô bắt đầu tấu lên những tình khúc lạc điệu. Cô yêu dáng vẻ phong sương, yêu cả nụ cười hiền từ mà đạo mạo của thầy. Cô biết như thế là tội lỗi. Thầy là người tu hành. Thầy cũng chẳng có tư ý gì với cô. Thầy chỉ đàn cho mọi người hát. Những lời hát mang ý nghĩa thanh cao, chứa đựng bao điều hay, bao lý tưởng đẹp trong cuộc sống. Vậy mà từng đêm…từng đêm… lòng Cô cứ ray rứt khổ đau trong nỗi niềm đơn phương lặng lẽ. Cô thầm trách người, rồi lại trách trời cao dun rũi. Nếu như không thoát khỏi lưới tình, thì sao lại buộc Cô vào chốn thâm nghiêm này.

Bà Tư thở dài :

_ Cả tuần nay nó không chịu ăn uống gì, cứ vật vã khóc lóc. Lại còn đòi tự tử nữa. Chính tiếng đàn của thầy đã làm hại nó. Dù mục đích của thầy có tốt đẹp như thế nào, nhưng hậu quả thì gia đình Tôi phải chịu. Chuyện đã như thế này thì Thầy không thể khôngtrách nhiệm.

Hôm sau Thầy Minh Ký xuống núi tìm đến nhà thăm cô gái đang lâm bịnh. Không hiểu Thầy đã nói những gì với Cô, nhưng được một lúc sau thì thầy trở về đập gãy cây đàn… thu xếp hành lý rồi từ giả núi rừng ra đi biền biệt.

Cuối năm, Cô Trâm đi lấy chồng. Chồng Cô là một Kỹ sư địa chất đang làm việc trong Thị trấn. Mọi người rồi cũng quên đi câu chuyện một thời đó. Nhưng Cô gái ngày xưa thì dường như không quên được. Nhiều năm sau này, Cô vẫn thường hay dắt đứa con nhỏ của mình lên núi, vào tận nơi hang đá… nhện giăng bụi bám để tìm lại chút dư âm cũ. Cây đàn bị đập vỡ nằm lăn lóc trong góc xó chẳng ai buồn đụng đến. Cảnh vật đìu hiu cũng khiến lòng người ai cảm bâng khuâng. Không ai biết được vị Thầy của ngôi thạch thất này đã đi đâu và làm gì? Có người bảo Thầy trở về tu trên Thành Phố. Cũng có người nói gặp thầy ở một ngọn núi xa tít tận cùng Đất Nước. Dù gì thì Thầy cũng đã dứt tình ra đi, để cho người ở lại tìm quên trong hạnh phúc của đời mình. Cô vẫn còn nhớ như in những lời Thầy đã nói :

- “ Tôi vì không muốn buộc ràng trong đường tình lụytừ bỏ gia đình, sự nghiệp để được sống đời tự tại giải thoát. Còn Cô thì có biết bao nhiêu mộng đẹp đang chờ đón phía trước… mà chắc chắn là Tôi sẽ không mang lại cho Cô những hạnh phúc đó được. Chúng ta là hai ranh giới không thể cùng hoà hợp trong một ngôi nhà Thế Gian. Có chăng là cùng hướng đến một thứ tình cảm cao thượng tốt đẹp để còn giữ cho nhau niềm thương kính như sơ. Cô hãy vì bản thân vì gia đình… mà sống xứng đáng với những gì mình đang có, đừng quá mơ mộng viễn vong. Chuyện tình cảm không thể gượng ép van xinhạnh phúc không thể có khi mà hai trái tim không đồng điệu. Hơn nữa tôi vì lý tưởng, vì mục đích cao cả nên không bao giờ từ bỏ con đường mà mình đã chọn….”

Núi rừng đã bao mùa thay lá, cảnh cũ rêu phong càng in đậm vẻ tang thương biến đổi. Dù tiếng đàn không còn, người khởi xướng đã như chim trời cá nước; Nhưng thỉnh thoảng vào những đêm trăng rằm…đám trẻ con vẫn quay quần bên chân núi cùng hát vang những câu hát, câu niệm Phật ngày xưa mà Thầy đã dạy. Hạt giống lành Thầy gieo trồng nay đang vươn mầm trổ nhụy. Có biết bao niềm tin được thắp sáng lên kể từ khi thầy rời bỏ ra đi.

Khi nghe tiếng hát vọng lên từ vùng ký ức xa xôi, người thiếu phụ chợt thấy lòng nhẹ khuây trong nỗi niềm sám hối chân thành. Tiếng hát từ lâu đã giúp cô cảm nhận ra một điều: -Hạnh phúc và khổ đau luôn đan xen như hình với bóng… để muôn đời trói buộc kiếp sống nhân sinh. Chỉ có người liễu ngộ được đạo lý chơn thường thì mới trở nên bất biến ngay trong vòng cương toả của thế gian.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1546)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1403)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1820)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1575)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1349)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1637)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2159)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1904)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1264)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1444)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1438)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1728)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1483)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1349)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1491)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1432)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1759)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1458)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1416)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1431)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1502)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1691)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1590)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1531)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1407)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1495)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1209)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1971)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1388)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1540)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2905)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1546)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1736)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1588)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2034)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1577)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1776)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1977)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2171)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1641)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2610)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1706)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1887)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1849)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1613)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2355)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1792)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1850)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1718)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2092)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant