Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đôi dòng tưởng niệm Đại Lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển

29 Tháng Chín 201000:00(Xem: 18722)
Đôi dòng tưởng niệm Đại Lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển

Một bậc Thạch Trụ Thiền gia, Tòng Lâm Mô Phạm đã hưng khởi uy nghi, đức độ dưới vòm trời Sơn Môn xứ Huế vào các thập niên 40-80, uy đức ấy mãi rạng ngời trong tâm thức người Phật tử mỗi khi tưởng niệm về Ôn – Đại Lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển.

Chúng con là đàn hậu học, ít có cơ may được hầu Ôn, mà nhất là học Tăng của các Phật Học Viện miền trong. Hơn nữa, chưa một lần được ra thăm chùa viện xứ Huế. Thời ấy, 1970-1975, chúng con nghe và biết qua sách vở rằng: Huế đẹp, Huế mộng mơ. Huế nên thơ nên xứ Huế có nhiều tao nhân mặc khách, hay Huế là cái nôi, nắm rún thai nghén sinh thành Phật giáo miền Trung. Các Tự viện, Tổ đình, Tòng Lâm, Sơn môn xứ Huế uy nghiêm, kính cẩn, phong kín nét thâm u cổ tự mà nhiều thế kỷ qua cho đến bây giờ vẫn không phai nhạt theo thời gian mà lại còn hiện thân một cách rộng rãi hơn nữa để đem đến cho mọi người một chiều sâu tâm thức thuần hậu, kính cẩn khi nói về Phật giáo Huế, hay danh đức các bậc kỳ Túc Thượng Nhân.

Huế được ca ngợi là đất thần kinh văn vật, với cái đẹp thiên nhiên của đất trời ưu việt dành cho, từ cảnh núi sông cẩm tú ấy đã sinh ra biết bao bậc Tôn Túc Thiền Gia, trong đó có Ôn – Đại Lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển.

Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ đi vào đời bằng hạnh nguyện độ sinh.

Đọc lại dòng lịch sử của Ôn, từ thuở thiếu thờisơ tâm xuất gia, cho đến ngày hóa duyên dĩ tất, an tường xả bỏ báo thân, thị tịch, qua 86 năm trụ thế, Ôn đã là hóa thân của một Đấng Tôn Sư trong chốn Thiền môn để nhiếp hóa chúng Tăng, giữ gìn kỷ cương phạm hạnh; ngoài xã hội, Ôn là bóng đại thọ tòng lâm che mát hàng nhơn thiên quy ngưỡng.

Lần đầu tiên chúng con gặp Ôn tại Phật Học Viện Nha Trang và lần thứ hai tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam Sài Gòn, chỉ thoáng nhìn qua thân tướng Ôn mọi người đã cảm nhận được bài thuyết pháp vô ngôn qua thân giáo. Với dáng đi thong dong tự tại, thân hình thẳng tắp, hai tay thả duỗi an nhiên, đôi mắt sáng quắc nghiêm nghị luôn nhìn thẳng vào người đối diện, một ánh mắt ít người có được, ánh mắt tuy nghiêm nghị nhưng ẩn tàng tấm lòng bao dung, từ hòa của đấng Cha lành lo cho đàn con mọn, của bậc Tôn sư huấn thị hàng hậu học tương lai. Giọng nói của Ôn trầm hùng uy lực, dù chỉ là cuộc nói chuyện bình thường, nhưng vẫn biểu hiện được nội chứng thâm hậu, khiến người nghe phải đem tâm quy phục.

Chúng con còn nhớ:

Vào một buổi chiều năm 1970, quý Thầy học Tăng Phật Học Viện Nha Trang, bách bộ trước sân nhà, Ôn từ Chánh điện chùa Hải Đức đi lên cốc Ôn Già Lam trên đồi Trại Thủy, khi đi ngang qua dãy Tăng đường, quý Thầy học Tăng thấy Ôn, nhưng không ai biết là Ôn Mật Hiển từ Huế vào thăm Ôn Già Lam, Giám Viện Phật Học Viện Nha Trang, vì thế quý Thầy cứ tự nhiên xem Ôn như một khách Tăng đến thăm viện. Nào ngờ, đến 8:00 giờ tối, Ôn Già Lam sai Thầy quản chúng, họp chúng tại cốc của Ôn, quý Thầy học Tăng vân tập lên cốc Ôn Già Lam, thấy Ôn Già Lam ngồi ngang hàng với Ôn Mật Hiển, nên mọi người hồi hộpchấn động trước uy dung của Ôn. Ôn Già Lam nói:

- Các Thầy hãy đảnh lễ Ôn Trúc Lâm.

- Sao hồi chiều các Thầy thấy Ôn mà không chào? Tui buồn các Thầy quá, các Thầy ở Phật Học Viện, thấy quý Ôn tới thăm viện mà không biết thưa hỏi.

Ôn Mật Hiển ôn tồn tiếp lời Ôn Già Lam, từng chữ, từng lời thắm thiết:

- Tui tưởng quý Thầy biết tui, nhưng quý Thầy không biết thôi thì đừng chấp trách. Tuy nhiên là người học Phật, cầu làm Phật, và nơi đây đào tạo người làm Phật, quý Thầy phải biết, gặp quý Thầy dù lớn hơn hay ngang hàng hoặc nhỏ hơn mình, tất cả đều nên chào hỏi thân mật. Ai thọ giới trước mình một đàn thì đã lớn hơn mình rồi, đừng nói là quý Ôn Trưởng thượng.

Rồi Ôn nói nhẹ một câu:

- Ôn Già Lam làm Giám Viện chiều quý Thầy quá.

Thì ra hồi chiều quý Thầy học Tăng thấy Ôn mà không chào, nên Ôn nói lại với Ôn Già Lam và Ôn Già Lam họp chúng để dạy bảo.

Từ tâm thức của bậc Sư trưởng là muốn giáo dục toàn diện – là sự giáo dục con người thành bậc Thánh, thành người mô phạm chân thân, là người đi trong cuộc đời mà không vấy nhiễm thanh sắc, Ôn đã hiện bày cuộc đời Ôn qua hai phạm trù giáo hóa: thân giáo và khẩu giáo, mọi người sống nơi Sơn Môn xứ Huế đều biết rõ nếp sống đạo hạnh của Ôn.

Trong đời sống hằng ngày của Ôn nơi tự viện là một bài học làm “Thầy tu” đầy lòng từ bi, trí tuệ, đầy sự hoành tráng uy nghiêm với tứ chúng, đầy sự nhiếp phục và tùng phục của chúng Tăng pháp lữ, mà qua lời dạy của Hòa Thượng Phước Huệ để trả lời cho đức Từ Cung khi được hỏi:

- Sau khi Hòa Thượng – Tổ Phước Huệ, về rồi, chúng con muốn học giáo lý, kinh điển thì biết làm sao?

Hòa Thượng Phước Huệ trả lời:

- Sau này quý vị nào muốn học thêm kinh điển thì nên theo học với chú Hiển (tức Hòa Thượng Mật Hiển bây giờ). Trúc Lâm Thiền Phái Tại Huế. Trang 166, xuất bản 1993 – Tín Nghĩa

Bấy nhiêu lời của Tổ Phước Huệ, chúng ta thấy được đầy đủ những gì cần có nơi Ôn. Từ tánh đức trang nghiêm, từ tướng thể tự tại, từ tâm ý thuần hòa, từ trí tuệ mẫn tiệp để dung nạp, hoằng truyền giáo pháp tiếp dẫn hậu lai. Từ những đức tánh ấy mà Tổ Giác Tiên đã thấy được một vị Tổ đức hóa thân vào đời kham nhẫn để phổ độ quần sanh, quyền bày phương tiện lập hạnh tùy duyên: Nội bí Thanh Văn, ngoại hiện Bồ Tát, mà Tổ đã truyền kệ phú pháp:

“Tâm Hương pháp giới huân,

Xứ xứ kiết tường vân

Phú nhữ Tâm Hương tánh

Cừ kim chánh thị quân”

Để thấy được rằng, hương thơm của tâm đã xông ướp khắp pháp giới, mà hương thơm của tâm, của người có đức hạnh chính là hương thơm của giới đức, vì Phật dạy: “Trong tất cả các loại hương thơm của hoa Mạn Thù Sa, hoa Ma Ha Mạn Thù Sa, hoa Mạt Lị, hay hương thơm của các loại hương chiên đàn, trầm thủy, không có một loại hương thơm nào có thể bay ngược gió, chỉ có loại hương thơm của người giới đức mới bay ngược gió tỏa ngát mười phương.”

Bằng giá trị này, Tổ đã mật ý nơi Ôn tánh giới trang nghiêm, thanh tịnh thấm nhuần cùng khắp kết thành những đóa tường vân mầu nhiệm, thanh thoát bao trùm, hàm dụng, nuôi dưỡng tánh đức Tâm Hương - pháp danh của Ôn - trong ngôi nhà Phật pháp và được tôn xưng là bậc Tướng quân trong hàng Chúng Trung Tôn.

Sư Bà Diệu Không, vì cảm phục hạnh nguyệnquy ngưỡng tánh đức nhiếp dẫn chúng Tăng, làu thông kinh luật của Ôn đã đề thơ ca tụng:

“Hòa Thượng kim triêu ngoại thất tuần,

Hoa niên xuất tục thậm gian truân

Trực tâm nhất niệm kinh thường diễn

Phật tánh viên dung luận quán quân...”

(sđd)

Đất thần kinh xứ Huế, ai trong chúng ta đều biết, dù người chưa từng đặt chân lên xứ Huế, là nơi có nhiều thắng duyên hội ngộ, là miền thánh địa của Phật giáo Việt Nam thời cận đại. Miền thánh địa này đã viết nên trang sử bi hùng của Phật giáo qua thời pháp nạn, và hình ảnh quý Ôn là sức sống miên trường, bất tận trong mọi tâm thức của nhiều thế hệ Phật tử, và đã góp một phần nhân duyên từ đây, Phật giáo Việt Nam đã dựng lên ngôi nhà Phật giáo Thống Nhất, mà hình ảnh Đức đệ Nhất Tăng Thống Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, chùa Tường Vân. Đức đệ Nhị Tăng Thống Hòa Thượng Thích Giác Nhiên chùa Thiền Tôn. Đức đệ Tam Tăng Thống Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, chùa Thiên Mụ, đã trải dài một chặng đường lịch sử Phật giáo uy hùng, đã băng qua và vượt trên mọi nguy nan thời đại để tự sống còn mà hộ quốc an dân, xiển dương Phật pháp, góp phần thêm bề dày cho dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam hơn 2000 năm qua.

Nếu bảo rằng các bậc kỳ túc Hòa Thượng Trí Quang, Hòa Thượng Thiện Minh... là những vị đối ngoại, góp mặt với thời cuộc thì Ôn Mật Hiển là người đối nội giữ vững rường cột Tăng già, là xương sống ngôi nhà Phật giáo Huế. Hình tướng Ôn, tâm lượng Ôn là sức sống miên mật, bền bỉ như một năng lượng dạt dào làm tươi mát hàng Tăng đoàn qua nhiều thập niên ấy. Chính vì năng lượng sống đã kết thành tường vân, đã quyện thành hương từ, đã giữ ngôi Tướng quân, đã tác thành chúng đức mà khi Ôn viên tịch, từ Tăng Ni cho đến Phật tử tại gia ai cũng nức lòng thương tiếc để cảm thán nên lời thơ công đức:

Hương Từ Rừng Trúc

Đầu đà giới hạnh nghiêm thông,

Đạo phong cao ngất, trăng rằm trời thu

Viên dung phước huệ song tu

Ngàn năm còn hưởng Hương từ Trúc Lâm”

(sđd)

Làn hương của lòng từ mẫn, của lòng thương tưởng, bao dung độ lượng vẫn còn phảng phất trên từng chiếc lá, nụ hoa, trên từng lối mòn quanh chùa rêu phong phủ kín, trên từng dấu ấn thời gian tự thủa sinh tiền.

Suốt một đời hiện thân hóa độ, công hạnh Ôn tương tác tương chỉ như pháp hiệu của Ôn – Mật Hiển – khi phương tiện hiện bày thị oai trấn nhiếp thì Ôn Hiển lộ khí thế xung thiênáp đảo tà ma quỷ mị, còn khi sách tấn dưỡng tâm tu đức thì Ôn Mật cảm khuyên răn, từ tâm thương xót, tiếp độ người khế lý, khế cơ. Có khi, Ôn như Tiêu Diện Thiên Vương, Hộ Pháp Già Lam, nhưng lắm lúc Ôn dịu hiền như Mẹ Quan Âm bơi thuyền từ đưa người qua bể khổ. Hiển Mật viên dung, lý sự vô ngại mà Ôn thong dong tự tại giữa bờ mê bến mộng bất phân sai thù. Chúng ta nghe Hòa Thượng Thiện Siêu nói về Ôn:

“Làm sao chúng tôi quên được những tháng ngày đồng lao cộng khổ, chung lo Phật sự, đạo phong của Hòa Thượng thì trác việt, nếp sống bình dị, nói năng khẳng quyết hùng hồn: “Đã là Thầy tu thì đừng sợ chết, nếu sợ chết thì đừng làm Thầy tu.” (sđd)

Từ đó, chúng ta hiểu Ôn đã liễu tri sinh tử như mộng, vô thường như huyễn, có không như bọt bể đầu ghềnh, thì có gì phải sợ. Sự sinh, sự tử nơi Ôn như là hiện thân hóa độ chúng sinh, khi công viên quả mãn thì an nhiên tự tại ra đi, để tiếp tục con đường độ sinh vô tận. Đó là Mật Hạnh của bậc Đại sỹ, là Hiển Thông của chư Thánh xuất trần.

Hơn ai hết, là những người đệ tử thân cận, thấy rõ hạnh nguyện của Ôn, mà cảm thán nên câu đối:

“Mật tại ý trung, thiền đăng tục diệm ư chánh nhơn, tác tòng lâm chi mô phạm

Hiển ư tướng ngoại, tổ ấn cao quang ư thục quả, vi tứ chúng chi chiêm y”

Hay:

“Mật hạnh dụng thần lợi nhơn lợi vật ly trước tướng

Hiển công viên tựu đương quán đương chỉ ứng Thiền cơ”

(sđd)

Tạm dịch:

- Mật ở nơi trong ý, làm chánh nhân tiếp nối ngọn thiền đăng, là khuôn mẫu nơi chốn tòng lâm phạm vũ.

Hiển là tướng bên ngoài, tựu thành kết quả tổ ấn sáng soi, làm nơi nương tựa cho hàng môn đồ cùng tu.

- Mật tàng công hạnh, làm lợi ích khắp cả quần sanhkhông chấp tướng.

Hiển lộ công phu, tu quán tu chỉ để phù hợp mọi căn cơ Thiền.

Đây là đôi dòng tưởng niệm của chúng con, hàng hậu học kính thành đảnh lễ Giác Linh Ôn thùy từ chứng giám và thầm gia hộ cho quê hương Ôn, quê hương của mọi người con Phật được thái hòa, thịnh trị, được tự do hạnh phúc mọi nhà, để hộ pháp các Sơn môn Tự viện, các Tổ đình Tòng Lâm Phật giáo Việt Nam mãi bền vững, giữa đất trời thiên thu vĩnh tận.

Kính thành đảnh lễ Giác Linh Ôn như lời cầu nguyện, Đạo pháp được xương minh, chúng môn đồ tinh chuyên tu học để giữ tròn tâm ý rỗng không mà chẳng dính mắc đôi bờ nhơn ngã, như lời kinh sám hối đêm qua.

“Xử thế giới như hư không

Dụ liên hoa bất trước thủy

Tâm thanh tịnh siêu ư bỉ

Khể thủ lễ Vô Thượng Tôn”

Hồi chuông công phu sáng của Tổ đình Trúc Lâm, Huế, mãi vang vọng như lời kinh siêu độ cứu vớt loài trầm luân.

Chùa Phật Đà, ngày 12 tháng 02 năm 2007

Thích Nguyên Siêu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9595)
Nếu chúng ta có một trái tim tràn đầy tình thương yêu thì có phải sẽ mang lại bình an không? Một trái tim tràn đầy thương yêu mà ta đang nói tới có nghĩa là gì?
(Xem: 11242)
Dân gian ta có câu: “Dầu xây chin bậc Phù đồ, Không bằng làm phúc cứu cho môt người”.
(Xem: 9561)
Ni Sư Thubten Chodron thường chú trọng đến việc áp dụng những điều Phật dạy vào đời sống hằng ngày của chúng ta
(Xem: 10026)
Sự hiện hữu của ta bao gồm thân và tâm. Ta cần quan tâm đến cả hai, dầu thiền là một hoạt động của tâm, chứ không phải thân.
(Xem: 9302)
Theo truyền thống Phật giáo Nam truyền (Theravāda), mùa an cư của chư Tăng bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 âm lịchkết thúc vào ngày rằm tháng 9 âm lịch.
(Xem: 8919)
Sinh sống có chánh niệm là một trong các quan niệm của đạo Phật nói về thái độ cẩn trọngsáng suốt của người xuất gia trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 11210)
Hiện nay có rất nhiều người trên thế giới thực hành ăn chay. Có người ăn chay trường, có người ăn chay kỳ, có người ăn chay tùy thích…
(Xem: 11296)
Tâm kinh Bát-nhã có câu nói nổi tiếng đề cập phương pháp giải thoát khổ đau rất truyền thống của đạo Phật Nguyên thủy, được nhấn mạnh trong các bản kinh Nikàya.
(Xem: 9557)
Để có hạnh phúc cho mình, người ta quên bẵng đi những thiệt thòi, tổn hại và khổ đau của kẻ khác. Đến khi khổ đau, mất mát, thì oán trách, đổ lỗi cho tha nhân.
(Xem: 8200)
Nếu chúng ta biết cố gắng làm việc tốt và chuyển tâm xấu ác thành tâm tốt thì quả sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt.
(Xem: 9506)
Chánh mạngphương kế sinh nhai chân chánh (còn gọi là phương tiện sống chân chánh). Trong Kinh DI GIÁO Đức Phật dạy các Tỳ kheo về Phương tiện thanh tịnh:
(Xem: 9741)
”Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ-tát do nhơn duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”.
(Xem: 9142)
Chắc hẳn quý vị đều nghĩ rằng sau khi đạt được Giác Ngộ thì Đức Phật nhất định phải có một cuộc sống thật thoải mái, có đúng thế hay chăng?
(Xem: 9667)
Đức Phật đã từng nói rằng: "Nầy các Tỳ Kheo, bất cứ ai muốn chăm sóc ta, người ấy phải muốn chăm sóc người bệnh"
(Xem: 9658)
Bái sám nhiều mà tội diệt phước sinh là không đúng về nhân quả.
(Xem: 8126)
Giáo pháp do Đức Phật dạy có rất nhiều nhưng trọng tâm vẫn là Bát Chánh đạo.
(Xem: 9059)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu,
(Xem: 22459)
Mặt trời hừng đông. Ngày mới lại đến. Buổi sáng bắt đầu cho một ngày mới của đời sống.
(Xem: 9326)
Thiền là một cách huấn luyện tâm, do đó, nếu chúng ta càng thực tập nhiều, càng thực tập đều đặn, chúng ta càng nhìn thấy sự tiến bộ của chúng ta.
(Xem: 17772)
Suy cho cùng, chính bạn chứ không phải ai khác là người chịu trách nhiệm cho việc bạn sử dụng số ngày còn lại của mình trong cuộc đời này ra sao.
(Xem: 10089)
Đức Phật dạy: “Nhứt thiết duy tâm tạo” tất cả đều do tâm tạo, “...Duy ngã độc tôn” “cái ta” là tối cao và quan trọng nhất, quyết định tất cả,
(Xem: 10619)
Đức Phật nêu lên Sự Thật Cao Quý Thứ Nhất và gọi Sự Thật này là dukkha. Thuật ngữ dukkha trong tiếng Pa-li thường được dịch là "khổ đau" (suffering)
(Xem: 10834)
Phát Bồ-đề tâm là phát sanh một ý nguyện đạt đến giác ngộ để cứu thoát tất cả chúng sanh.
(Xem: 9702)
Khi chưa biết tu, thân ta có khi làm việc thiện lành tốt đẹp, có lúc ta làm việc xấu ác gây nhiều tội lỗi, miệng có khi nói lời ngọt ngào dễ thương, có lúc nói
(Xem: 9346)
Nếu chúng ta phản ứng mạnh mẽ với tiếng ồn, nghĩa là chúng ta dấn thân vào cuộc chiến mà chúng ta không thể nào dành được phần thắng.
(Xem: 10324)
Trong nhiều pháp thoại, Thế Tôn thường sử dụng các hình ảnh trực quan để minh họa cho những giáo huấn của Ngài.
(Xem: 9421)
Nói đến tình thương, theo thế tục, chúng ta liên tưởng đến đối tượng của tình thương với những điều kiện (như một sự trao đổi tương xứng).
(Xem: 10587)
Đạo Phật dứt khoát không bao giờ chấp nhận việc mê tín Thần quyền, nhứt là những vấn đề tin nhảm nhí, theo một niềm tin mù quáng, không được điều động bởi lý trí.
(Xem: 9622)
Theo sự chỉ dạy của Thế Tôn, người Phật tử cũng có quyền làm giàu để nâng cao sự sống ngoài việc lo tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đìnhxã hội.
(Xem: 15391)
Khi đến chùa bạn hãy nhớ những điều dưới đây không được nghĩ tới và cũng không được cầu khẩn mong muốn thành hiện thực nhé, những điều này là không nên.
(Xem: 8513)
Một vị lãnh đạo đất nước muốn giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, có được cơm no áo ấm và sống an vui, hạnh phúc trên tinh thần vô ngã, vị tha phải là người có ...
(Xem: 11131)
Từ bisức mạnh thế nào, tới mức độ nào, và có thể chuyển hóa được thế gian hay nhân loại hay không
(Xem: 9255)
Người ta thường ngạc nhiên khi khám phá ra rằng thiền rất khó hành. Nhìn bề ngoài nó có vẻ là việc đơn giản, chỉ ngồi xuống chiếc gối nhỏ và theo dõi hơi thở.
(Xem: 8547)
Những ý niệm như vô ngại, đồng thời, đồng hiện, sẵn đủ, viên mãn… không chỉ có trong kinh Hoa Nghiêm mà có trong tất cả kinh điển, nhất là Đại thừa.
(Xem: 8785)
Thế giới loài vật cũng có sự sống sinh hoạt song hành với loài người nên cũng bị vô minh chi phối.
(Xem: 14535)
Chùa Khánh Anh - Paris Pháp Quốc
(Xem: 12694)
Tìm hiểu về quá trình tu tập của Sa-môn Cồ-đàm - nhất là khi từ bỏ vị thầy thứ hai (Uất-đầu-lam-phất) cùng hội chúng, Ngài đi đến Khổ hạnh lâm trải qua 6 năm khổ hạnh;
(Xem: 9614)
Có nhiều người thích trang sức bằng những viên ngọc quý. Tuy nhiên, viên ngọc đẹp đẽ, và to lớn nhất, là viên ngọc trong tâm.
(Xem: 9248)
Môi trường sống để tu học rất quan trọng cho tiến trình thành quả của người thực hành, nếu không nhận ra sự khác biệt trên giáo pháp Đức Thế Tôn dạy và...
(Xem: 9838)
Thí dụ về chiếc bè là một trong những ngụ ngôn và ẩn dụ, quen thuộcnổi tiếng nhất của Đức Phật.
(Xem: 14704)
Khi chim còn sống trên đời Chim ăn kiến nhỏ thấy thời khó chi, Nhưng khi chim bị chết đi Kiến thời ăn nó có gì khó đâu.
(Xem: 9083)
Mỗi khi phải đương đầu với nghịch cảnh hoặc các thứ chướng ngại, thì quý vị nên xem đấy như là một món quà thấm đượm từ biĐạo Pháp mang tặng mình,
(Xem: 10508)
Chúng ta ai cũng biết sân hậnđau khổ vì nó áp lực chúng ta phải giải tỏa những mối đe dọa bằng mọi giá.
(Xem: 10450)
Đức Phật thường ví mình như một vị y sĩ, và Đạo Pháp là phương thuốc Ngài dùng để chữa bệnh.
(Xem: 9592)
"Tu là quá trình: quán chiếu nội tâm, làm triệt tiêu bản ngãchuyển hóa nghiệp lực của mình” đây là ba điều kiện tiên quyết, cốt yếu và tinh túy nhất, trong phận sự người tu.
(Xem: 9444)
Họa hay phước không phải do ngày tháng xấu, tốt tạo ra; họa hay phước là do nhân quả mà có
(Xem: 10307)
Tất cả mọi sự sống ở trên đời này từ khổ đau cho đến hạnh phúc của thế gian cũng đều từ cái ta mà ra.
(Xem: 9777)
Không làm điều ác; không chán nản, không bỏ cuộc, kiên trì và nhẫn nại quyết làm xong việc lành mới thôi; chính là hai “tướng mạo” của người trí.
(Xem: 9279)
Con ngườisinh lão bệnh tử, đó là quy luật vĩnh hằng; cũng như trái đất có thành trụ hoại không.
(Xem: 10759)
Người ta vẫn thường hay nói nghèo là khổ, nghèo khổ, chứ ít ai nói giàu khổ cả.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant