Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đôi dòng tưởng niệm Đại Lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển

29 Tháng Chín 201000:00(Xem: 18730)
Đôi dòng tưởng niệm Đại Lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển

Một bậc Thạch Trụ Thiền gia, Tòng Lâm Mô Phạm đã hưng khởi uy nghi, đức độ dưới vòm trời Sơn Môn xứ Huế vào các thập niên 40-80, uy đức ấy mãi rạng ngời trong tâm thức người Phật tử mỗi khi tưởng niệm về Ôn – Đại Lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển.

Chúng con là đàn hậu học, ít có cơ may được hầu Ôn, mà nhất là học Tăng của các Phật Học Viện miền trong. Hơn nữa, chưa một lần được ra thăm chùa viện xứ Huế. Thời ấy, 1970-1975, chúng con nghe và biết qua sách vở rằng: Huế đẹp, Huế mộng mơ. Huế nên thơ nên xứ Huế có nhiều tao nhân mặc khách, hay Huế là cái nôi, nắm rún thai nghén sinh thành Phật giáo miền Trung. Các Tự viện, Tổ đình, Tòng Lâm, Sơn môn xứ Huế uy nghiêm, kính cẩn, phong kín nét thâm u cổ tự mà nhiều thế kỷ qua cho đến bây giờ vẫn không phai nhạt theo thời gian mà lại còn hiện thân một cách rộng rãi hơn nữa để đem đến cho mọi người một chiều sâu tâm thức thuần hậu, kính cẩn khi nói về Phật giáo Huế, hay danh đức các bậc kỳ Túc Thượng Nhân.

Huế được ca ngợi là đất thần kinh văn vật, với cái đẹp thiên nhiên của đất trời ưu việt dành cho, từ cảnh núi sông cẩm tú ấy đã sinh ra biết bao bậc Tôn Túc Thiền Gia, trong đó có Ôn – Đại Lão Hòa Thượng Thích Mật Hiển.

Ôn hiện thân vào đời năm Đinh Mùi, 1907, tại làng Dạ Lê Thượng, xã Thủy Phương, quận Hương Thủy, Thừa Thiên. Từ đó, Ôn đã mang hành trang của người giác ngộ đi vào đời bằng hạnh nguyện độ sinh.

Đọc lại dòng lịch sử của Ôn, từ thuở thiếu thờisơ tâm xuất gia, cho đến ngày hóa duyên dĩ tất, an tường xả bỏ báo thân, thị tịch, qua 86 năm trụ thế, Ôn đã là hóa thân của một Đấng Tôn Sư trong chốn Thiền môn để nhiếp hóa chúng Tăng, giữ gìn kỷ cương phạm hạnh; ngoài xã hội, Ôn là bóng đại thọ tòng lâm che mát hàng nhơn thiên quy ngưỡng.

Lần đầu tiên chúng con gặp Ôn tại Phật Học Viện Nha Trang và lần thứ hai tại Tu Viện Quảng Hương Già Lam Sài Gòn, chỉ thoáng nhìn qua thân tướng Ôn mọi người đã cảm nhận được bài thuyết pháp vô ngôn qua thân giáo. Với dáng đi thong dong tự tại, thân hình thẳng tắp, hai tay thả duỗi an nhiên, đôi mắt sáng quắc nghiêm nghị luôn nhìn thẳng vào người đối diện, một ánh mắt ít người có được, ánh mắt tuy nghiêm nghị nhưng ẩn tàng tấm lòng bao dung, từ hòa của đấng Cha lành lo cho đàn con mọn, của bậc Tôn sư huấn thị hàng hậu học tương lai. Giọng nói của Ôn trầm hùng uy lực, dù chỉ là cuộc nói chuyện bình thường, nhưng vẫn biểu hiện được nội chứng thâm hậu, khiến người nghe phải đem tâm quy phục.

Chúng con còn nhớ:

Vào một buổi chiều năm 1970, quý Thầy học Tăng Phật Học Viện Nha Trang, bách bộ trước sân nhà, Ôn từ Chánh điện chùa Hải Đức đi lên cốc Ôn Già Lam trên đồi Trại Thủy, khi đi ngang qua dãy Tăng đường, quý Thầy học Tăng thấy Ôn, nhưng không ai biết là Ôn Mật Hiển từ Huế vào thăm Ôn Già Lam, Giám Viện Phật Học Viện Nha Trang, vì thế quý Thầy cứ tự nhiên xem Ôn như một khách Tăng đến thăm viện. Nào ngờ, đến 8:00 giờ tối, Ôn Già Lam sai Thầy quản chúng, họp chúng tại cốc của Ôn, quý Thầy học Tăng vân tập lên cốc Ôn Già Lam, thấy Ôn Già Lam ngồi ngang hàng với Ôn Mật Hiển, nên mọi người hồi hộpchấn động trước uy dung của Ôn. Ôn Già Lam nói:

- Các Thầy hãy đảnh lễ Ôn Trúc Lâm.

- Sao hồi chiều các Thầy thấy Ôn mà không chào? Tui buồn các Thầy quá, các Thầy ở Phật Học Viện, thấy quý Ôn tới thăm viện mà không biết thưa hỏi.

Ôn Mật Hiển ôn tồn tiếp lời Ôn Già Lam, từng chữ, từng lời thắm thiết:

- Tui tưởng quý Thầy biết tui, nhưng quý Thầy không biết thôi thì đừng chấp trách. Tuy nhiên là người học Phật, cầu làm Phật, và nơi đây đào tạo người làm Phật, quý Thầy phải biết, gặp quý Thầy dù lớn hơn hay ngang hàng hoặc nhỏ hơn mình, tất cả đều nên chào hỏi thân mật. Ai thọ giới trước mình một đàn thì đã lớn hơn mình rồi, đừng nói là quý Ôn Trưởng thượng.

Rồi Ôn nói nhẹ một câu:

- Ôn Già Lam làm Giám Viện chiều quý Thầy quá.

Thì ra hồi chiều quý Thầy học Tăng thấy Ôn mà không chào, nên Ôn nói lại với Ôn Già Lam và Ôn Già Lam họp chúng để dạy bảo.

Từ tâm thức của bậc Sư trưởng là muốn giáo dục toàn diện – là sự giáo dục con người thành bậc Thánh, thành người mô phạm chân thân, là người đi trong cuộc đời mà không vấy nhiễm thanh sắc, Ôn đã hiện bày cuộc đời Ôn qua hai phạm trù giáo hóa: thân giáo và khẩu giáo, mọi người sống nơi Sơn Môn xứ Huế đều biết rõ nếp sống đạo hạnh của Ôn.

Trong đời sống hằng ngày của Ôn nơi tự viện là một bài học làm “Thầy tu” đầy lòng từ bi, trí tuệ, đầy sự hoành tráng uy nghiêm với tứ chúng, đầy sự nhiếp phục và tùng phục của chúng Tăng pháp lữ, mà qua lời dạy của Hòa Thượng Phước Huệ để trả lời cho đức Từ Cung khi được hỏi:

- Sau khi Hòa Thượng – Tổ Phước Huệ, về rồi, chúng con muốn học giáo lý, kinh điển thì biết làm sao?

Hòa Thượng Phước Huệ trả lời:

- Sau này quý vị nào muốn học thêm kinh điển thì nên theo học với chú Hiển (tức Hòa Thượng Mật Hiển bây giờ). Trúc Lâm Thiền Phái Tại Huế. Trang 166, xuất bản 1993 – Tín Nghĩa

Bấy nhiêu lời của Tổ Phước Huệ, chúng ta thấy được đầy đủ những gì cần có nơi Ôn. Từ tánh đức trang nghiêm, từ tướng thể tự tại, từ tâm ý thuần hòa, từ trí tuệ mẫn tiệp để dung nạp, hoằng truyền giáo pháp tiếp dẫn hậu lai. Từ những đức tánh ấy mà Tổ Giác Tiên đã thấy được một vị Tổ đức hóa thân vào đời kham nhẫn để phổ độ quần sanh, quyền bày phương tiện lập hạnh tùy duyên: Nội bí Thanh Văn, ngoại hiện Bồ Tát, mà Tổ đã truyền kệ phú pháp:

“Tâm Hương pháp giới huân,

Xứ xứ kiết tường vân

Phú nhữ Tâm Hương tánh

Cừ kim chánh thị quân”

Để thấy được rằng, hương thơm của tâm đã xông ướp khắp pháp giới, mà hương thơm của tâm, của người có đức hạnh chính là hương thơm của giới đức, vì Phật dạy: “Trong tất cả các loại hương thơm của hoa Mạn Thù Sa, hoa Ma Ha Mạn Thù Sa, hoa Mạt Lị, hay hương thơm của các loại hương chiên đàn, trầm thủy, không có một loại hương thơm nào có thể bay ngược gió, chỉ có loại hương thơm của người giới đức mới bay ngược gió tỏa ngát mười phương.”

Bằng giá trị này, Tổ đã mật ý nơi Ôn tánh giới trang nghiêm, thanh tịnh thấm nhuần cùng khắp kết thành những đóa tường vân mầu nhiệm, thanh thoát bao trùm, hàm dụng, nuôi dưỡng tánh đức Tâm Hương - pháp danh của Ôn - trong ngôi nhà Phật pháp và được tôn xưng là bậc Tướng quân trong hàng Chúng Trung Tôn.

Sư Bà Diệu Không, vì cảm phục hạnh nguyệnquy ngưỡng tánh đức nhiếp dẫn chúng Tăng, làu thông kinh luật của Ôn đã đề thơ ca tụng:

“Hòa Thượng kim triêu ngoại thất tuần,

Hoa niên xuất tục thậm gian truân

Trực tâm nhất niệm kinh thường diễn

Phật tánh viên dung luận quán quân...”

(sđd)

Đất thần kinh xứ Huế, ai trong chúng ta đều biết, dù người chưa từng đặt chân lên xứ Huế, là nơi có nhiều thắng duyên hội ngộ, là miền thánh địa của Phật giáo Việt Nam thời cận đại. Miền thánh địa này đã viết nên trang sử bi hùng của Phật giáo qua thời pháp nạn, và hình ảnh quý Ôn là sức sống miên trường, bất tận trong mọi tâm thức của nhiều thế hệ Phật tử, và đã góp một phần nhân duyên từ đây, Phật giáo Việt Nam đã dựng lên ngôi nhà Phật giáo Thống Nhất, mà hình ảnh Đức đệ Nhất Tăng Thống Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, chùa Tường Vân. Đức đệ Nhị Tăng Thống Hòa Thượng Thích Giác Nhiên chùa Thiền Tôn. Đức đệ Tam Tăng Thống Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, chùa Thiên Mụ, đã trải dài một chặng đường lịch sử Phật giáo uy hùng, đã băng qua và vượt trên mọi nguy nan thời đại để tự sống còn mà hộ quốc an dân, xiển dương Phật pháp, góp phần thêm bề dày cho dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam hơn 2000 năm qua.

Nếu bảo rằng các bậc kỳ túc Hòa Thượng Trí Quang, Hòa Thượng Thiện Minh... là những vị đối ngoại, góp mặt với thời cuộc thì Ôn Mật Hiển là người đối nội giữ vững rường cột Tăng già, là xương sống ngôi nhà Phật giáo Huế. Hình tướng Ôn, tâm lượng Ôn là sức sống miên mật, bền bỉ như một năng lượng dạt dào làm tươi mát hàng Tăng đoàn qua nhiều thập niên ấy. Chính vì năng lượng sống đã kết thành tường vân, đã quyện thành hương từ, đã giữ ngôi Tướng quân, đã tác thành chúng đức mà khi Ôn viên tịch, từ Tăng Ni cho đến Phật tử tại gia ai cũng nức lòng thương tiếc để cảm thán nên lời thơ công đức:

Hương Từ Rừng Trúc

Đầu đà giới hạnh nghiêm thông,

Đạo phong cao ngất, trăng rằm trời thu

Viên dung phước huệ song tu

Ngàn năm còn hưởng Hương từ Trúc Lâm”

(sđd)

Làn hương của lòng từ mẫn, của lòng thương tưởng, bao dung độ lượng vẫn còn phảng phất trên từng chiếc lá, nụ hoa, trên từng lối mòn quanh chùa rêu phong phủ kín, trên từng dấu ấn thời gian tự thủa sinh tiền.

Suốt một đời hiện thân hóa độ, công hạnh Ôn tương tác tương chỉ như pháp hiệu của Ôn – Mật Hiển – khi phương tiện hiện bày thị oai trấn nhiếp thì Ôn Hiển lộ khí thế xung thiênáp đảo tà ma quỷ mị, còn khi sách tấn dưỡng tâm tu đức thì Ôn Mật cảm khuyên răn, từ tâm thương xót, tiếp độ người khế lý, khế cơ. Có khi, Ôn như Tiêu Diện Thiên Vương, Hộ Pháp Già Lam, nhưng lắm lúc Ôn dịu hiền như Mẹ Quan Âm bơi thuyền từ đưa người qua bể khổ. Hiển Mật viên dung, lý sự vô ngại mà Ôn thong dong tự tại giữa bờ mê bến mộng bất phân sai thù. Chúng ta nghe Hòa Thượng Thiện Siêu nói về Ôn:

“Làm sao chúng tôi quên được những tháng ngày đồng lao cộng khổ, chung lo Phật sự, đạo phong của Hòa Thượng thì trác việt, nếp sống bình dị, nói năng khẳng quyết hùng hồn: “Đã là Thầy tu thì đừng sợ chết, nếu sợ chết thì đừng làm Thầy tu.” (sđd)

Từ đó, chúng ta hiểu Ôn đã liễu tri sinh tử như mộng, vô thường như huyễn, có không như bọt bể đầu ghềnh, thì có gì phải sợ. Sự sinh, sự tử nơi Ôn như là hiện thân hóa độ chúng sinh, khi công viên quả mãn thì an nhiên tự tại ra đi, để tiếp tục con đường độ sinh vô tận. Đó là Mật Hạnh của bậc Đại sỹ, là Hiển Thông của chư Thánh xuất trần.

Hơn ai hết, là những người đệ tử thân cận, thấy rõ hạnh nguyện của Ôn, mà cảm thán nên câu đối:

“Mật tại ý trung, thiền đăng tục diệm ư chánh nhơn, tác tòng lâm chi mô phạm

Hiển ư tướng ngoại, tổ ấn cao quang ư thục quả, vi tứ chúng chi chiêm y”

Hay:

“Mật hạnh dụng thần lợi nhơn lợi vật ly trước tướng

Hiển công viên tựu đương quán đương chỉ ứng Thiền cơ”

(sđd)

Tạm dịch:

- Mật ở nơi trong ý, làm chánh nhân tiếp nối ngọn thiền đăng, là khuôn mẫu nơi chốn tòng lâm phạm vũ.

Hiển là tướng bên ngoài, tựu thành kết quả tổ ấn sáng soi, làm nơi nương tựa cho hàng môn đồ cùng tu.

- Mật tàng công hạnh, làm lợi ích khắp cả quần sanhkhông chấp tướng.

Hiển lộ công phu, tu quán tu chỉ để phù hợp mọi căn cơ Thiền.

Đây là đôi dòng tưởng niệm của chúng con, hàng hậu học kính thành đảnh lễ Giác Linh Ôn thùy từ chứng giám và thầm gia hộ cho quê hương Ôn, quê hương của mọi người con Phật được thái hòa, thịnh trị, được tự do hạnh phúc mọi nhà, để hộ pháp các Sơn môn Tự viện, các Tổ đình Tòng Lâm Phật giáo Việt Nam mãi bền vững, giữa đất trời thiên thu vĩnh tận.

Kính thành đảnh lễ Giác Linh Ôn như lời cầu nguyện, Đạo pháp được xương minh, chúng môn đồ tinh chuyên tu học để giữ tròn tâm ý rỗng không mà chẳng dính mắc đôi bờ nhơn ngã, như lời kinh sám hối đêm qua.

“Xử thế giới như hư không

Dụ liên hoa bất trước thủy

Tâm thanh tịnh siêu ư bỉ

Khể thủ lễ Vô Thượng Tôn”

Hồi chuông công phu sáng của Tổ đình Trúc Lâm, Huế, mãi vang vọng như lời kinh siêu độ cứu vớt loài trầm luân.

Chùa Phật Đà, ngày 12 tháng 02 năm 2007

Thích Nguyên Siêu
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2206)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1706)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2019)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1720)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1719)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1889)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1900)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1556)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1728)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2064)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1813)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2380)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1711)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1711)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1672)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2118)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1942)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2082)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1622)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2236)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1591)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1870)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1753)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1817)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1655)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2398)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2112)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2057)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1860)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2212)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1790)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1910)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2140)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1673)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1933)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1927)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2145)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1919)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1762)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1747)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1749)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1860)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2152)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1706)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1678)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2244)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1951)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1771)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2341)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1949)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant