Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật trong nghệ thuật lịch sử tạo hình

29 Tháng Chín 201000:00(Xem: 14009)
Đức Phật trong nghệ thuật lịch sử tạo hình

Ngày nay, người tin Phật, tu theo Phật được tiếp xúc với tranh tượng ảnh Phật gần như hàng ngày. Hình tượng Phật hầu như có mặt khắp nơi, có khi treo dưới kính chiếu hậu xe hơi, có khi trang nghiêm ngự trên tòa sen trong chánh điện của một đại già lam.

 


Hình tượng Phật không những xuất hiện trong những không gian lặng lẽ nơi phòng thờ hay bàn thờ gia đình mà còn xuất hiện trên những đỉnh núi cao ngất và hùng vĩ; không những xuất hiện ở những nơi tín ngưỡng cầu cúng nhang đèn mà thậm chí còn xuất hiện ở những nơi công cộng như khách sạn, nhà hàng... Nhìn lại ngọn nguồn lịch sử, chúng ta thấy rằng để tiến đến mức độ phát triển như vậy, nghệ thuật tạo hình Phật giáo đã trải qua nhiều thời kỳ khác nhau với những cống hiến âm thầm của thế hệ tiền nhân.

Từ xưa, hình tượng Đức Phật đã là chủ đề trung tâm của nghệ thuật tạo hình Phật giáo, người Phật tử luôn cần có hình ảnh Ngài để chiêm ngưỡng, đảnh lễ, cúng dường; và, ý nghĩa hơn cả là noi gương tu tập hay làm đối tượng để thiền định quán chiếu. Hồi sinh tiền, Đức Phật thường vân du hóa đạoPhật tử tịnh xá Kỳ Viên cảm thấy ưu phiền vì không được viếng thăm, diện kiến. Biết được vậy, Đức Phật dạy rằng cây bồ đề là biểu tướng của Phật, khi Phật vắng mặt hãy viếng thăm, chiêm bái, đảnh lễ cây bồ đề. Công đức, phước báo mà người ấy tạo được sẽ như là viếng thăm và đảnh lễ Phật. Kinh điển còn ghi lại rằng trong thời gian Đức Phật lên cung trời Đao-lợi thuyết pháp, “Điên cuồng vì sự vắng mặt của Ngài, đức vua Udayana đặt làm một bức tượng từ gỗ đàn hương, mà ông tặng cho Đức Phật khi Ngài trở về”(1). Nếu còn thì đó là pho tượng Phật đầu tiên trong lịch sử tạo hình Phật giáo, tuy vậy, khi về lại trần gian, Đức Phật không chấp nhận nó.

blank

Đến lúc Đức Phật Niết-bàn, nhục thân của Ngài vĩnh viễn không còn ở trần gian nữa thì nhu cầu có hình tượng Phật càng trở nên bức xúc. Kinh Niết bàn dù là bản Pàli, Tạng văn hay Hán văn đều ghi nhận việc dùng những lễ nghi và phương thức trà tì nhục thân Phật tương tự với ‘hậu sự’ của một vị Chuyển luân Thánh vương. Sau đó là việc xây tháp phụng thờ ở những ngã tư đường lớn để mọi người đều có thể dâng cúng hương hoa, cờ lọng, tràng phan, bảo cái, kể cả âm nhạc tán tụng.

Thời kỳ đầu, tháp thờ Phật trở thành trung tâm tín ngưỡng, là biểu tướng của bậc Đạo sư. Chiêm ngưỡng tháp Phật là để tưởng nhớ đến những hành trạng và những phẩm tính thù thắng của Phật; việc đó được xem như là có phước đức tương đương với việc chiêm ngưỡng chính bản thân Phật khi Ngài còn tại thế. Ở một số nơi, truyền thống đặc biệt này vẫn còn được gìn giữ, cụ thể là chùa Thông Độ danh tiếng ở Hàn Quốc với ngôi chánh điện không cốt tượng mà chỉ có Xá lợi Phật được tôn trí ở những ngôi tháp phía sau bàn hương án.

Người có tín tâm thời bấy giờ xác định rằng cúng dường lễ bái tháp Phật không phải chỉ vì trong tháp có chứa đựng Xá lợi mà còn vì tháp còn là biểu trưng cho quả vị Chánh đẳng Chánh giác, thậm chí xem tháp là Pháp thân Phật (Dharmakaya). Có thể vì vậy mà tháp Phật ở Bồ đề đạo tràng Ấn Độ còn được gọi là tháp Chánh giác. Mỗi tầng, mỗi bộ phận trong cấu trúc tháp tương ứng với mỗi tầng bậc, mỗi quả vị hay phẩm tính mà vị Bồ tát đạt được trên con đường dẫn đến Phật quả.

Rời khỏi những câu chuyện truyền thuyết, chúng ta có thể xác định rằng nghệ thuật tạo hình Phật giáolịch sử bắt đầu từ thời hậu A Dục với 3 di chỉ trọng yếu là Sanchi, Bharut và Amaravati. Để trang trí cho những ngôi tháp cổ kính và vĩ đại ở ba quần thể di tích trên, người Phật tử thời ấy nghĩ ngay đến hình tượng Phật và những ấn tượng mà Ngài đã để lại trong tâm hồn mình. Qua những bức phù điêu trên tháp cũng như cổng rào có độ tuổi trên hai ngàn năm, họ đã kể lại cho chúng ta nghe những câu chuyện hấp dẫn xa xưa. Điểm đặc biệt là trong những câu chuyện này, Đức Phật không xuất hiện với thân tướng con người, thay vào vị trí mà Ngài ngự là những vật biểu trưng. Vì vậy, khách chiêm bái khi thấy bàn chân có in hình bánh xe Pháp thuộc tướng quý của bậc đại nhân thì hãy mường tượng ra Đức Phật đản sinh đang đi từng bước trên đài sen, cất lên lời tuyên bố chấn động tam thiên: Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Thấy cội bồ đề hay tòa Kim cang thì hãy mường tượng ra Đức Phật thiền định, đánh bại Ma vươngtrạng thái thanh lương tĩnh lặng với quả vị Vô thượng Bồ đề sau đêm thành đạo. Cũng vậy, hình bánh xe thay cho Đức Phật chuyển pháp luân, ngôi tháp thờ Xá lợi thay cho Đức Phật Niết bàn...

Những học giả cho đến nay cũng chưa có thể biết chắc tại sao Đức Phật không xuất hiện bằng hình dạng con người trên các phù điêu mà chỉ xuất hiện thông qua vật biểu trưng nhất là khi mọi người khác đều xuất hiện ‘bằng xương bằng thịt’, từ vua quan đến cung tần mỹ nữ, thậm chí những người bình thường trong đám rước. Khách hành hương thông thường có thể lấy làm lạ nhưng những tâm hồn tinh tế lại lấy làm thú vị. Chúng ta có thể nêu lên ba cách lý giải hiện tượng có mặt mọi người mà không có mặt Đức Phật như sau.

  1. Đức Phật trong hình vóc con ngườiĐức Phật đã bị giới hạn trong tấm thân xương thịt ít nhất là về mặt thể chất nên không còn phù hợp với những phẩm tính thù thắng, uy hùng, siêu vượt. Hơn nữa, dung sắc phi phàm của Phật khi đó sẽ bị lệ thuộc vào bàn tay khéo léo hay vụng về của những nghệ nhân điêu khắc. Tâm hồn của người Phật tử thuần thành có thể cảm thấy bị tổn thương khi Đức Phật “tuyệt đối” của mình lại ‘bị’ thể hiện bằng những nét đẹp tương đối và đôi khi rất là ‘trần gian’.

  2. Đức Phật trong hình tượng biểu trưng không làm thỏa mãn hoàn toàn nhu cầu tín ngưỡng cúng bái thuộc mọi cấp độ nhưng lại rất phù hợp với pháp thiền quán. Tâm thức của hành giảvô tận vì vậyĐức Phật hiện ra cũng vô tận. Cụ thể, người ta khó có thể thực hiện được một tượng Phật to bằng núi Châu Thới nhưng một hành giả trong khi quán tưởng dễ dàng phóng chiếu ra một vị Phật to như vậy, thậm chí một vị Phật trùm khắp hư không mà vẫn đứng ngồi hay thuyết pháp sinh động.

  3. Truyền thuyết vua Udayana và bức tượng từ gỗ đàn hươngĐức Phật không chấp nhận đã có ảnh hưởng mạnh trong những thế kỷ đầu khiến cho những người Phật tử dù có khao khát chiêm ngưỡng Phật nhưng vẫn ngần ngại việc tạo hình đúc tượng Ngài theo hướng ‘mày ngang mũi dọc’.

Tình trạng ‘đạo Phật không có tượng Phật’ kéo dài cho đến thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch thì Đức Phật trong hình dạng con người mới bắt đầu xuất hiện. Tượng Phật từ đó nhanh chóng trở thành trọng tâm tín ngưỡng Phật giáo với hai trường phái tạo hình lớn là Mathura và Gandhara. Trường phái Mathura khắc họa hình dạng Đức Phật với những đường nét rất gần gũi với những vị thần thánh thuộc tín ngưỡng bản địa Ấn Độ, tròn trịa và sung túc. Trong khi đó với trường phái Gandhara, Đức Phật có những nét đẹp thanh tú của những vị thần Hy Lạp.

Khi đạo Phật lan xa tỏa rộng vượt qua những sa mạc và biển khơi, tiếp xúc với những nền văn minh mới, hình tượng Đức Phật theo đó mà tiếp biến và phát triển, rực rỡ và càng lúc càng phong phú cho đến ngày nay. Đức Phật đã trở nên muôn hình muôn vẻ, ngoài những quy ước căn bản đã mang thêm nhiều yếu tố văn hóa của nhiều địa phương khác nhau. Ngay trong một quốc độ, tùy theo sơn môn bộ pháitượng Phật cũng dị biệt, đặc biệtphương diện nhân tướng, diện tướng. Tượng Phật của Nhật có khuôn mặt hao hao giống người Nhật; tượng Phật của Tây Tạng có khuôn mặt hao hao giống người Tây Tạng; và dĩ nhiên tượng Phật Việt Nam thường giống với người Việt Nam.

Chuyện Phật tử được chiêm bái tượng Phật tưởng chừng dường như là chuyện đương nhiên. Nhưng sự thật, chuyện đương nhiên đó đã không xảy ra trong nhiều thế kỷ. Thế hệ Phật tử trong thời kỳ đầu không hề được chiêm bái Đức Phật trong dạng tranh tượng mãi cho đến thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch. Chúng ta thấy rằng dù chỉ có những hình ảnh biểu trưng như tháp Xá lợi, bánh xe Chánh pháp, Phật tử ngày xưa đã khéo léo vận dụng để làm phương tiện quán chiếu và noi gương tu tập.

Một cách cẩn trọng, chúng ta thấy rằng chiêm bái tranh tượng đã không phải là chuyện đương nhiên; và việc chiêm bái theo cách có ý nghĩa nhất chắc chắn cũng không phải đương nhiên mà ai cũng có được. Nhìn bằng đôi mắt lạc quan, chúng ta lại thấy trong cuộc sống hiện đại, người Phật tử tuy phải đối mặt với nhiều thực trạng và tai ách đặc trưng của thời đại, nhưng bù lại, được hưởng nụ cười thanh thoát an nhiên của bậc Đạo sư qua hình ảnh tranh tượng càng ngày càng phong phú, và gần như mọi lúc mọi nơi.

(1) Robert E. Fisher, Mỹ thuật Và Kiến trúc Phật giáo (bản dịch của Huỳnh Ngọc Trảng và Nguyễn Tuấn), Nxb Mỹ Thuật, 2002, trang 20.



Thích Minh Thành Ph.D


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1072)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1015)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1057)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1062)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1202)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 959)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 936)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1005)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1134)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1165)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 928)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1034)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 995)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1099)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1099)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1239)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1281)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1078)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1085)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1184)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1217)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1155)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1439)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1082)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1149)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1179)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1042)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1088)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1193)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1275)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1344)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1508)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1366)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1298)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1067)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1176)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1150)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1203)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1166)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1103)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1316)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1385)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1410)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1310)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1259)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1086)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1169)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1182)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1247)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant