Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiếng hú của sói giữa đàn sư tử

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 21532)
Tiếng hú của sói giữa đàn sư tử


Ở cao nguyên Hùng Hoàng (Manosilā) có rất nhiều Tỳ-kheo quảng học đa văn và tiếng nói thì lớn như tiếng rống của sư tử. Trong khi giảng pháp ở trước Tăng chúng, giọng nói của họ rất lớn, như thể làm cho sông Ngân hà ở trên trời cũng phải rơi xuống. Khi nghe họ giảng pháp như vậy, Câu-ca-lợi (Kokālika) vì không biết mình là một kẻ bất tài thiểu trí nên mong muốn được giảng pháp như họ. Thế rồi, Câu-ca-lợi đi vào giữa hội chúng Tỳ-kheo, nhưng dẫu có đi vào thì cũng không có ai chấp nhận cho thầy giảng kinh cả, vì thế thầy nói:

- Không ai yêu cầu tôi giảng kinh cả. Nếu có người yêu cầu, tôi sẽ làm việc đó.

Tăng chúng nghe thế thì nghĩ sẽ thử thầy. Họ nói:

- Thưa Pháp hữu Câu-ca-lợi, hôm nay thỉnh thầy giảng cho Tăng chúng một vài bài kinh.

Vị này đồng ý mà không biết sự ngây ngô của mình, và ngày hôm đó thầy đã giảng kinh cho Tăng chúng.

Đầu tiên thầy dùng hết số cháo nấu theo ý muốn, ăn một ít thức ăn và dùng một ít súp mà mình ưa thích. Sau đó vào lúc hoàng hôn, khi tiếng chuông báo hiệu thời giảng kinh được điểm và tất cả Tăng chúng tập họp lại, Câu-ca-lợi mặc hạ y có màu xanh như cây hoa chuông, đắp thượng y màu trắng bạch và đi vào hội chúng, đảnh lễ các Trưởng lão, bước lên pháp tòa đặt bên trong một Chánh pháp đường được trang sức bằng đá quý rất đẹp, tay cầm một cái quạt được trang trí tao nhã rồi ngồi xuống bắt đầu giảng kinh. Nhưng ngay khi đó, mồ hôi bắt đầu đổ ra khắp thân và thầy cảm thấy vô cùng bối rối. Thầy đọc được câu đầu tiên của bài kệ thứ nhất nhưng những câu tiếp theo thầy không thể nhớ được. Thế rồi trong trạng thái bấn loạn, thầy đứng dậy rời khỏi pháp tòa, đi băng qua hội chúngtrở về phòng riêng của mình. Một Tỳ-kheo khác, một người quảng học đã lên thay thầy giảng kinh. Từ hôm đó, tất cả các Tỳ-kheo đều biết Câu-ca-lợi là một người trống rỗng.

Một hôm, các Tỳ-kheo bắt đầu bàn luận việc đó trong Chánh pháp đường:

- Thưa các Pháp hữu, trước đây thật khó biết được Câu-ca-lợi là người thế nào. Giờ đây, thầy ấy vì muốn giảng kinh đã tự thể hiện sự trống rỗng của mình.

Đức Thế Tôn đi vào và hỏi họ đang cùng bàn luận điều gì. Họ bạch sự việc với Ngài. Ngài nói:

- Này các Tỳ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Câu-ca-lợi đã để lộ chân tướng của mình qua việc giảng kinh, mà đời trước sự việc tương tự như vậy cũng đã từng xảy ra.

Nói như vậy xong, đức Thế Tôn kể cho các Tỳ-kheo câu chuyện Tiền thân dưới đây.

* * *

Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì xứ Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con sư tử, là vua của một đàn sư tử đông đúc. Bồ-tát sống cùng với đàn sư tử ở trong một cái hang Bạc, và gần đó, có một con chó sói sống trong một cái hang khác.

Một hôm, sau trận mưa rào, cả đàn sư tử tập trung lại trước cửa hang của sư tử vương, rồi rống lớn, đùa nhảy như thói quen mà loài sư tử thường làm. Khi chúng rống lên và nhảy nhót như vậy, con sói kia cũng bắt chước cất lên tiếng kêu của mình.

- Đây là tiếng con sói hú lên khi nghe chúng ta rống! Những con sư tử nói.

Rồi cảm thấy xấu hổ, chúng lặng im không rống nữa. Khi cả đàn sư tử im lặng như thế, sư tử con của Bồ-tát hỏi cha:

- Thưa cha, cả đàn sư tử này đang rống lên và đùa nhảy, đã vội im lặng vì quá hổ thẹn khi nghe tiếng con vật kia. Con vật gì mà bằng tiếng kêu của mình đã để lộ chân tướng như vậy?

Và nó đọc lên bài kệ:

Kẻ nào kêu lớn tiếng
Vang dội Đạt-đà-la?
Sao tất cả sư tử
Không rống lại, thưa cha?

Nghe con hỏi vậy, Sư tử vương đọc lên bài kệ khác:

Sói, kẻ cất tiếng kia
Là loại thú đáng khinh.
Sư tử ghét hèn hạ,
Nên ngồi giữ lặng thinh .

* * *
Sau khi kể xong câu chuyện, đức Thế Tôn nói thêm:

- Này các Tỳ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Câu-ca-lợi đã để lộ chân tướng của mình qua việc giảng kinh, mà đời trước sự việc tương tự như vậy cũng đã từng xảy ra.

Kết thúc pháp thoại, đức Thế Tôn nhận diện Tiền thân:

- Vào kiếp đó, Câu-ca-lợi là chó sói, La-hầu-la (Rāhula) là sư tử con, còn ta chính là sư tử vương.

(Tiền thân Daddara, số 172, dịch từ bản tiếng Anh)

Lời bình:

Không ai dám cho rằng mình là một người thông thái biết đủ mọi thứ trên đời. Và cũng không ai dám cho rằng mình là một người tài năng có thể làm được mọi việc. Con người vốn hữu hạn, hữu hạn trong sinh mệnh cũng như trong tri thứctài năng.

Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời này vẫn có những người không hề nhận ra được điều đó. Họ chưa bao giờ biết mình là ai, chưa bao giờ thấy được sự hữu hạn trong tri thứctài năng của mình nên cứ lầm tưởng mình là người đầy đủ tài trí, biết đủ mọi thứ trên đời. Cái dốt của con người không hẳn ở chỗ họ biết ít mà ở chỗ họ không thấy rằng mình biết ít. Trong kinh Pháp cú đức Phật dạy: “Người ngu biết mình ngu, nhờ vậy thành có trí, người ngu tưởng mình trí, thật xứng gọi chí ngu.” Vì vậy, khiêm tốn, biết được khả năng thật có của mình là cách sống của một người khôn ngoan, hữu trí.

Trong cuộc sống, đời nào cũng có những kẻ kém tài nhưng lại tưởng mình đa năng, và mỗi khi nghĩ mình tài năng thì họ lại cố khẳng định cho người khác biết. Mỗi khi vô tài mà muốn khẳng định có tài thì việc làm đó trở thành một trò cười cho thiên hạ, nếu không muốn nói là làm cho người khác phải xấu hổ thay. Cả hai phần của câu chuyện Tiền thân trên đây cho ta thấy được điều đó.

Câu-ca-lợi là một người bất tài vô trí. Sự bất tài vô trí đó sẽ không trở thành trò cười cho người khác nếu thầy nhận ra được nó và không có cái “tham vọng” vượt quá sức mình là “thăng tòa giảng kinh”. Cái đáng trách là ở chỗ này chứ không phải ở chỗ thầy bất tài. Cũng như con sói kia, tiếng kêu của nó dầu khó nghe thì cũng không có ai trách cứ gì nếu nó biết an phận đừng bắt chước rống lên tiếng rống sư tử.

Nhưng dẫu sao ở đây, thầy Câu-ca-lợi vẫn còn đáng quý là khi gặp “sự cố” ở trên pháp tòa, thầy đã biết bước xuống để nhường chỗ cho người khác giảng kinh và lòng vô cùng hổ thẹn khi trở về phòng riêng. Chừng đó thôi thầy cũng đã hơn rất nhiều người vì cuối cùng thầy nhận ra được mình là ai. Còn trong cuộc sống thực tế, có những người không thể được như thầy. Có những kẻ bất tài vô trí nhưng cứ nghĩ rằng mình thực tài hữu trí, để rồi dương dương tự đắc, xem trời bằng vung. Thiên hạchê cười cũng không hề thấy, hoặc có thấy cũng bất chấp. Rồi mỗi khi họ có cơ may được “thăng tòa”, dù chẳng làm được gì khi ngồi trên tòa đó, vẫn cứ ngồi ì như thế, không thèm biết người ta có nghe mình, phục mình hay không. Những người như thế mới thật đáng thương làm sao!

Qua câu chuyện trên, chúng ta rút ra được bài học: hãy khiêm hạ và biết lường sức mình trước khi làm một công việc gì. ❑

Nguồn: Tập San Pháp Luân 13


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 591)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 773)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1099)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 995)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 758)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 804)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 820)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 794)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 780)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 937)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 823)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 980)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 995)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 922)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 848)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1004)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 985)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 898)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 841)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 949)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 903)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1006)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1144)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1606)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1250)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 967)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 951)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 793)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1474)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1351)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1264)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1368)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1324)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1468)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1346)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1257)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1316)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant