Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiếng hú của sói giữa đàn sư tử

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 21482)
Tiếng hú của sói giữa đàn sư tử


Ở cao nguyên Hùng Hoàng (Manosilā) có rất nhiều Tỳ-kheo quảng học đa văn và tiếng nói thì lớn như tiếng rống của sư tử. Trong khi giảng pháp ở trước Tăng chúng, giọng nói của họ rất lớn, như thể làm cho sông Ngân hà ở trên trời cũng phải rơi xuống. Khi nghe họ giảng pháp như vậy, Câu-ca-lợi (Kokālika) vì không biết mình là một kẻ bất tài thiểu trí nên mong muốn được giảng pháp như họ. Thế rồi, Câu-ca-lợi đi vào giữa hội chúng Tỳ-kheo, nhưng dẫu có đi vào thì cũng không có ai chấp nhận cho thầy giảng kinh cả, vì thế thầy nói:

- Không ai yêu cầu tôi giảng kinh cả. Nếu có người yêu cầu, tôi sẽ làm việc đó.

Tăng chúng nghe thế thì nghĩ sẽ thử thầy. Họ nói:

- Thưa Pháp hữu Câu-ca-lợi, hôm nay thỉnh thầy giảng cho Tăng chúng một vài bài kinh.

Vị này đồng ý mà không biết sự ngây ngô của mình, và ngày hôm đó thầy đã giảng kinh cho Tăng chúng.

Đầu tiên thầy dùng hết số cháo nấu theo ý muốn, ăn một ít thức ăn và dùng một ít súp mà mình ưa thích. Sau đó vào lúc hoàng hôn, khi tiếng chuông báo hiệu thời giảng kinh được điểm và tất cả Tăng chúng tập họp lại, Câu-ca-lợi mặc hạ y có màu xanh như cây hoa chuông, đắp thượng y màu trắng bạch và đi vào hội chúng, đảnh lễ các Trưởng lão, bước lên pháp tòa đặt bên trong một Chánh pháp đường được trang sức bằng đá quý rất đẹp, tay cầm một cái quạt được trang trí tao nhã rồi ngồi xuống bắt đầu giảng kinh. Nhưng ngay khi đó, mồ hôi bắt đầu đổ ra khắp thân và thầy cảm thấy vô cùng bối rối. Thầy đọc được câu đầu tiên của bài kệ thứ nhất nhưng những câu tiếp theo thầy không thể nhớ được. Thế rồi trong trạng thái bấn loạn, thầy đứng dậy rời khỏi pháp tòa, đi băng qua hội chúngtrở về phòng riêng của mình. Một Tỳ-kheo khác, một người quảng học đã lên thay thầy giảng kinh. Từ hôm đó, tất cả các Tỳ-kheo đều biết Câu-ca-lợi là một người trống rỗng.

Một hôm, các Tỳ-kheo bắt đầu bàn luận việc đó trong Chánh pháp đường:

- Thưa các Pháp hữu, trước đây thật khó biết được Câu-ca-lợi là người thế nào. Giờ đây, thầy ấy vì muốn giảng kinh đã tự thể hiện sự trống rỗng của mình.

Đức Thế Tôn đi vào và hỏi họ đang cùng bàn luận điều gì. Họ bạch sự việc với Ngài. Ngài nói:

- Này các Tỳ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Câu-ca-lợi đã để lộ chân tướng của mình qua việc giảng kinh, mà đời trước sự việc tương tự như vậy cũng đã từng xảy ra.

Nói như vậy xong, đức Thế Tôn kể cho các Tỳ-kheo câu chuyện Tiền thân dưới đây.

* * *

Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì xứ Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con sư tử, là vua của một đàn sư tử đông đúc. Bồ-tát sống cùng với đàn sư tử ở trong một cái hang Bạc, và gần đó, có một con chó sói sống trong một cái hang khác.

Một hôm, sau trận mưa rào, cả đàn sư tử tập trung lại trước cửa hang của sư tử vương, rồi rống lớn, đùa nhảy như thói quen mà loài sư tử thường làm. Khi chúng rống lên và nhảy nhót như vậy, con sói kia cũng bắt chước cất lên tiếng kêu của mình.

- Đây là tiếng con sói hú lên khi nghe chúng ta rống! Những con sư tử nói.

Rồi cảm thấy xấu hổ, chúng lặng im không rống nữa. Khi cả đàn sư tử im lặng như thế, sư tử con của Bồ-tát hỏi cha:

- Thưa cha, cả đàn sư tử này đang rống lên và đùa nhảy, đã vội im lặng vì quá hổ thẹn khi nghe tiếng con vật kia. Con vật gì mà bằng tiếng kêu của mình đã để lộ chân tướng như vậy?

Và nó đọc lên bài kệ:

Kẻ nào kêu lớn tiếng
Vang dội Đạt-đà-la?
Sao tất cả sư tử
Không rống lại, thưa cha?

Nghe con hỏi vậy, Sư tử vương đọc lên bài kệ khác:

Sói, kẻ cất tiếng kia
Là loại thú đáng khinh.
Sư tử ghét hèn hạ,
Nên ngồi giữ lặng thinh .

* * *
Sau khi kể xong câu chuyện, đức Thế Tôn nói thêm:

- Này các Tỳ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Câu-ca-lợi đã để lộ chân tướng của mình qua việc giảng kinh, mà đời trước sự việc tương tự như vậy cũng đã từng xảy ra.

Kết thúc pháp thoại, đức Thế Tôn nhận diện Tiền thân:

- Vào kiếp đó, Câu-ca-lợi là chó sói, La-hầu-la (Rāhula) là sư tử con, còn ta chính là sư tử vương.

(Tiền thân Daddara, số 172, dịch từ bản tiếng Anh)

Lời bình:

Không ai dám cho rằng mình là một người thông thái biết đủ mọi thứ trên đời. Và cũng không ai dám cho rằng mình là một người tài năng có thể làm được mọi việc. Con người vốn hữu hạn, hữu hạn trong sinh mệnh cũng như trong tri thứctài năng.

Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời này vẫn có những người không hề nhận ra được điều đó. Họ chưa bao giờ biết mình là ai, chưa bao giờ thấy được sự hữu hạn trong tri thứctài năng của mình nên cứ lầm tưởng mình là người đầy đủ tài trí, biết đủ mọi thứ trên đời. Cái dốt của con người không hẳn ở chỗ họ biết ít mà ở chỗ họ không thấy rằng mình biết ít. Trong kinh Pháp cú đức Phật dạy: “Người ngu biết mình ngu, nhờ vậy thành có trí, người ngu tưởng mình trí, thật xứng gọi chí ngu.” Vì vậy, khiêm tốn, biết được khả năng thật có của mình là cách sống của một người khôn ngoan, hữu trí.

Trong cuộc sống, đời nào cũng có những kẻ kém tài nhưng lại tưởng mình đa năng, và mỗi khi nghĩ mình tài năng thì họ lại cố khẳng định cho người khác biết. Mỗi khi vô tài mà muốn khẳng định có tài thì việc làm đó trở thành một trò cười cho thiên hạ, nếu không muốn nói là làm cho người khác phải xấu hổ thay. Cả hai phần của câu chuyện Tiền thân trên đây cho ta thấy được điều đó.

Câu-ca-lợi là một người bất tài vô trí. Sự bất tài vô trí đó sẽ không trở thành trò cười cho người khác nếu thầy nhận ra được nó và không có cái “tham vọng” vượt quá sức mình là “thăng tòa giảng kinh”. Cái đáng trách là ở chỗ này chứ không phải ở chỗ thầy bất tài. Cũng như con sói kia, tiếng kêu của nó dầu khó nghe thì cũng không có ai trách cứ gì nếu nó biết an phận đừng bắt chước rống lên tiếng rống sư tử.

Nhưng dẫu sao ở đây, thầy Câu-ca-lợi vẫn còn đáng quý là khi gặp “sự cố” ở trên pháp tòa, thầy đã biết bước xuống để nhường chỗ cho người khác giảng kinh và lòng vô cùng hổ thẹn khi trở về phòng riêng. Chừng đó thôi thầy cũng đã hơn rất nhiều người vì cuối cùng thầy nhận ra được mình là ai. Còn trong cuộc sống thực tế, có những người không thể được như thầy. Có những kẻ bất tài vô trí nhưng cứ nghĩ rằng mình thực tài hữu trí, để rồi dương dương tự đắc, xem trời bằng vung. Thiên hạchê cười cũng không hề thấy, hoặc có thấy cũng bất chấp. Rồi mỗi khi họ có cơ may được “thăng tòa”, dù chẳng làm được gì khi ngồi trên tòa đó, vẫn cứ ngồi ì như thế, không thèm biết người ta có nghe mình, phục mình hay không. Những người như thế mới thật đáng thương làm sao!

Qua câu chuyện trên, chúng ta rút ra được bài học: hãy khiêm hạ và biết lường sức mình trước khi làm một công việc gì. ❑

Nguồn: Tập San Pháp Luân 13


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1660)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1651)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1823)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1835)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1514)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1674)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2013)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1762)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2322)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1656)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1664)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1618)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2076)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1894)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2033)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1582)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2189)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1549)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1808)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1697)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1761)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1599)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2346)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2061)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2012)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1822)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2161)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1730)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1852)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2080)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1612)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1877)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1869)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2093)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1859)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1707)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1688)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1695)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1806)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2102)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1663)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1637)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2190)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1902)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1710)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2281)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1898)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1988)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2183)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2464)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant