Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyến đò canh ba

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 17816)
Chuyến đò canh ba


Hình ảnh những bến đò, những sân ga thường gợi cho chúng ta sự linh động của đến, đi, chia tay và hội ngộ, khởi hành và điểm tới, tùy theo định hướng của từng đối tượng.

Suốt chặng đường đời, đã bao lần lữ khách đứng bên sông, đợi bóng một con đò, lòng bâng khuâng tưởng về nơi sẽ tới, người sẽ gặp? Hay còi tàu giục giã sân ga có làm nôn nao bao người đi, kẻ ở?


Nhân gian đã từng ngược xuôi muôn vạn chuyến đi, về, nhưng con đò kia, chuyến tàu nọ chẳng lưu lại gì như:
“Nhạn quá trường không,

Ảnh trầm hàn thủy.
Nhạn vô di tích chi ý,
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.”
Nhạn liệng giữa hư không,
Bóng chìm dưới nước.
Nhạn không để dấu vết lại,
Nước chẳng lưu bóng làm chi.
(VNPG sử lược, HT. Mật Thể)

Thế nên, nhân gian cứ đến và đi như gió thoảng mây trôi, cứ tiếp tục luân hồi chìm đắm, dù thảng hoặc, sách vở ghi lại những Đến và Đi “lịch sử” theo quan niệm hạn hẹp của nhân gian. Chẳng hạn - một sự kiện thôi - như chuyến đi của tráng sĩ Kinh Kha, một mình một kiếm sang Tần với nhiệm vụ giết bạo chúa để cứu muôn dân. Thí dụ sự kiện này vì Kinh Kha được ca ngợi tới mức danh-từ-riêng “Kinh Kha” được người đời dùng như một tĩnh từ kép để nói về cái đẹp, cái uy dũng, cái hào khí ngất trời, thỉnh thoảng thấy trong thơ văn, như bước-chân kinh-kha, khí-phách-kinh-kha, tấm-lòng-kinh-kha v.v... Tráng sĩ Kinh Kha không hoàn thành được sứ mạngâm mưu bị bại lộ. Dù không ai luận anh hùng qua sự thành bại, nhưng những huyền thoại quanh việc Kinh Kha sang Tần có những điều tàn nhẫn quá đáng. Chẳng hạn, trong tiệc rượu vua quan triều thần khoản đãi trước lúc ra đi, Kinh Kha chỉ buột miệng khen cánh tay đẹp của một ca nhi dâng rượu thì sau đó ít phút, một mâm tặng phẩm phủ khăn lụa đỏ được đem ra. Kinh Kha mở tấm lụa, thảng thốt. Đó là đôi tay đẹp của người ca nhi vừa dâng rượu!!!

Chuyến ra đi làm sao còn đẹp khi máu vô tội đã chảy vì bước chân người đi!?

Nhưng may thay, có những chuyến đi không tiệc rượu, không nhã nhạc, không cả tấp nập tiễn đưa, nhưng những chuyến đi ấy còn rực rỡ hào quang đến nay, còn là đuốc soi đường, còn vô cùng vô tận lợi ích quần sanh.

Các bạn có thì giờ không? Chúng ta ôn bài nhé, chỉ là ôn bài thôi, vì câu chuyện này chúng ta đều đã được nghe qua ít nhiều nên trong khi ôn bài, ta sẽ không chú tâm vào chi tiết nội dung mà sẽ nhìn bằng nhãn quan của người thưởng thức hội họa, nghĩa là nhìn toàn diện cái đẹp phảng phất, mênh mang đã tạo thành tuyệt tác, chứ không tấm tắc khen tranh vì bức này vẽ cái ly giống quá, bức kia vẽ bông hoa thật thắm tươi. Nhìn ngắm như thế, e rằng chúng ta chỉ thấy cảnh mà không thấy cái tâm đã tạo ra cảnh.

Bài ôn hôm nay là câu chuyện người thanh niên tên Huệ Năng, nhà nghèo, mù chữ, xuất thân từ đất Lĩnh Nam. Cha mất sớm, Huệ Năng làm nghề đốn củi nuôi mẹ, chưa từng bao giờ được đến trường tiếp nhận một chữ Thánh Hiền. Một lần giao củi tới nhà khách, Huệ Năng thoáng nghe tiếng tụng kinh. Dừng sát bên vách, ghé tai chăm chú, chàng thanh niên đó nghe được câu kệ “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”. Chỉ câu kệ đó đã thúc đẩy Huệ Năng can đảm bước vào hỏi:

- Thưa ngài, ngài đang tụng kinh gì đó?

Khách bảo:

- Ta tụng kinh Kim Cang, do Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn chùa Đông Thiền, huyện Huỳnh Mai tuyên giảng.

- Thưa ngài, từ đây tới đó bao xa?

- Đi khoảng ba mươi ngày sẽ tới, ngươi hỏi làm chi?

- Thưa ngài, tôi muốn được nghe pháp vi diệu này.

Tấm lòng thiết tha cầu đạo của chàng thanh niên nghèo đã làm một thiện nhân cảm động. Người ấy đưa cho Huệ Năng mười lạng bạc, bảo về thu xếp sự ăn ở cho mẹ già để yên tâm lên đường trực chỉ Hoàng Mai.

Nếu duyên chưa hội đủ, có kẻ xa lạ nào sẵn lòng đưa mười lạng bạc cho người thanh niên nhà quê, làm nghề đốn củi, chỉ vì ý muốn vu vơ là tìm thầy học đạo?

Chỉ chi tiết này cũng đủ khiến chúng ta rơi lệ, phải không quý đạo hữu? Vì nếu không an tâm về cái ăn, nơi ở của mẹ già thì người con hiếu thảo như Huệ Năng không bao giờ ra đi được, dù là đi tìm đạo.

Chuyến đi đó, tranh vẽ nào có thể đẹp hơn?

Khi đến huyện Huỳnh Mai, Huệ Năng hỏi đường tới chùa Đông Thiền, vào bái yết Ngũ Tổ. Tổ hỏi:

- Ngươi từ đâu? Tới cầu chi?

- Thưa Tổ, con người Lĩnh Nam, tới cầu làm Phật.

- Người Lĩnh Nam quê mùa, sao cầu làm Phật được?

- Thưa Tổ, người tuy có Nam có Bắc nhưng Phật tánh thì không phân chia Nam Bắc. Thân quê mùa này so với Tổ có khác, nhưng Phật tánh trong thân này với thân Tổ nào sai khác chi đâu!

Nghe thế, Tổ Hoằng Nhẫn vội nói:

- Thôi được, hãy đi xuống nhà trù, lo công việc giã gạo.

Huệ Năng quỳ xuống, lạy tạ Tổ đã thâu nhận và vâng lời, xuống nhà bếp lo giã gạo, bửa củi.

Chúng ta tưởng Tổ tàn nhẫn ư? Không đâu, Tổ quá từ bi đấy, vì Ngài nhận ra ngay, thanh niên nhà quê này không phải là tầm thường. Trước mặt đông đảo môn sinh của chùa Đông Thiền, Ngũ Tổ không muốn họ nhận ra sự quan tâm đặc biệt của Tổ đối với kẻ nghèo khổ, vừa từ xa đến. Đó là Tổ muốn bảo vệ Huệ Năng, không chỉ buổi đầu đó mà để cho an toàn, tám tháng sau Tổ cũng không ngó ngàng tới người thanh niên suốt ngày bửa củi, giã gạo dưới bếp.

Nhưng hạt đã gieo, phải tới lúc nẩy mầm. Đó là khi Tổ gọi toàn thể môn sinh, hơn một ngàn người tới, truyền rằng:

- Các con theo học ta đã lâu, nay tới lúc kiểm điểm lại thành quả mình. Mỗi người hãy làm một bài kệ, nói lên cái đã thấy biết của mình. Ta sẽ duyệt xét từng bài, hễ nội dung chứng tỏ đã ngộ, ta sẽ trao truyền y bát cho kẻ đó, lãnh trách nhiệm của vị Tổ thứ sáu.

Thật là một lời truyền vô cùng quan trọng. Cả ngàn môn sinh họp nhau bàn bạc rồi cùng đồng ý xin thầy Thần Tú đại diện, làm một bài thôi vì Thần Tú là người thông minh, trí tuệ nhất đại chúng, ai mà có thể làm hay hơn được!

Thần Tú viết bài kệ lên vách tường:

Thân thị Bồ-đề thọ
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhạ trần ai.

Đại ý, thân là cây Bồ-đề, tâm như tấm gương trong, phải luôn lau chùi quét dọn cho bụi khỏi bám vào.
Bài kệ được các đồng môn của Thần Tú nức nở khen hay, ai cũng thuộc, cũng đọc nghêu ngao suốt ngày, cho đến nơi nhà bếp, Huệ Năng cũng nghe được. Người thanh niên suốt tám tháng trời chỉ im lặng bổ củi, giã gạo, đã mon men đến bức tường có bài kệ đó, nhờ một người đọc lại cho nghe. Nghe xong, Huệ Năng bảo người ấy:

- Tôi cũng có bài kệ, nhưng không biết chữ, xin huynh viết lên giúp tôi được không?

Bài kệ của Huệ Năng như vầy:

Bồ-đề bổn vô thụ
Minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai.

Đại ý, Bồ-đề - ví như thân - thật ra chẳng phải cây, tâm sáng như gương thì chẳng cần đài, bản chất đích thực “không là gì cả” thì lấy chỗ đâu cho bụi bám mà phải lo lau chùi!

Kệ của Thần Tú ở thể xác định, kệ Huệ Năng ở thể phủ định, hoàn toàn trái ngược. Khi hai bài kệ được viết gần nhau, đại chúng đều sửng sốt!

Ngay đêm đó, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn xuống nhà bếp tìm Huệ Năng.

- Ngươi biết vì sao ta không hỏi han chi tới ngươi trong tám tháng qua không?

Huệ Năng quỳ xuống:

- Đa tạ sự che chở của sư phụ, đệ tử đã biết.

- Tốt.

Và Tổ dùng gậy trúc, gõ xuống sàn ba tiếng, rồi thong thả đi ra.

Canh ba đêm đó, Huệ Năng tuân theo hiệu lệnh, lặng lẽ lên phòng Tổ. Cửa được đóng kín lại ngay sau bước chân. Dưới ánh nến lung linh, Ngũ Tổ cấp tốc giảng kinh Kim Cang cho người đệ tử không biết chữ. Huệ Năng đắc pháp ngay trong đêm, rồi được truyền quỳ gối, kính cẩn nhận Y Bát và lời chỉ dạy:

- Ngươi nay là Tổ thứ sáu, nhưng chưa thuận duyên để truyền giáo. Ngay đêm nay, ngươi phải lập tức lên đường, cố gắng bảo trọng thân mạng vì sự tranh giành Y Bát này sẽ xảy ra. Ta không có sự chọn lựa nào khác. Vậy hãy đi ngay trước khi trời sáng.

- Bạch sư phụ, con từ xa tới, nay biết phương hướng nào mà đi đâu?

- Chớ lo, ta sẽ đưa ngươi một đoạn thuyền.

Đêm đó, trời không trăng nhưng đầy sao. Bến đò Cửu Giang vắng vẻ, u tịch, nhưng hương đêm lãng đãng, làn nhang trầm phảng phất từ tàng kinh các nào. Trong không gian huyền hoặc đó, con đò nhỏ tách khỏi bờ lau, trôi êm về phương Nam. Sao trời lấp lánh trên áo nâu sồng của một già, một trẻ, không nói lời nào mà đang trao truyền muôn vạn lời.

Chuyến đò rời nhánh sông Cửu Giang đêm ấy đã để lại cho chúng ta bao tặng phẩm vô giá từ tấm lòng nhị vị Đại sư. Con đò nhỏ chở đầy từ tâm, độ lượng của Ngũ Tổtrí tuệ, nhẫn nhục của Lục Tổ đã thành những trang Bảo Đàn kinh châu ngọc, dẫn dắt chúng sanh nhận ra “Bản lai vô nhất vật”.

“Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác thì bản lai của anh là gì?”

Đó là bài pháp đầu tiên Lục Tổ độ cho người toan ám hại mình để giành Y Bát.

Sau đó, suốt mười lăm năm sống ẩn dật với đám thợ săn vì biết chưa hội đủ thuận duyên hoằng pháp, nhưng mười lăm năm đó, Lục Tổ Huệ Năng cũng đã phương tiện, độ cho bọn người chỉ biết một cách duy nhất để tìm thực phẩm là săn bắn.

Khi duyên đã đủ, Lục Tổ rời rừng núi, tìm đến chùa Pháp Tánh tỉnh Quảng Châu, nơi pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết-bàn. Hôm đó, trời nhiều gió làm lay động những màn, phướn treo quanh giảng đường. Lục Tổ nghe thấy hai vị Tăng đối thoại, người thì bảo “gió động”, người kia nhất định không phải gió, mà là “phướn động”.

Khi ấy, Lục Tổ đến bên, nhẹ nhàng bảo:

- Không phải gió động, cũng chẳng phải phướn động, mà là tâm quý vị động đó thôi.

Vừa nghe như thế, hai vị Tăng bỗng ngộ.

Đó là bài pháp thứ hai mà Lục Tổ dạy cho chúng sanh. Giai thoại này lập tức đến tai pháp sư Ấn Tông đang ngồi trên tòa cao giảng kinh. Pháp sư cho mời người thanh niên có dáng vẻ nghèo nàn, lam lũ đó tới gần. Khi biết Huệ Năng từ Hoàng Mai đến, pháp sư hỏi:

- Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn dạy ông những gì?

- Chỉ luận về sự “thấy tánh”.

- Còn thiền địnhgiải thoát thì sao?

- Đó là hai pháp nên chẳng phải Phật pháp vì nếu đích thực Phật pháp thì phải là pháp không hai.

Pháp sư Ấn Tông chưa hiểu kịp, bèn khẩn khoản:

- Xin ông dạy rõ hơn.

- Tỉ như thiện cănhai mặt: thường, hoặc vô thường. Tỉ như Uẩn và Giới, kẻ phàm phu phân biệt là hai, khi liễu ngộ mới thấy tánh của chúng là không hai. Tánh Không Hai Chính Là Phật Tánh, là thể trong suốt, chẳng thường cũng chẳng vô thường nên không hề bị đoạn lìa. Phật tánh đó, chúng sanh hoặc nhận ra, hoặc chưa nhận ra chứ không thể lưng chừng như ác lẫn thiện, đẹp lẫn xấu.

Đó là bài pháp thứ ba, Lục Tổ tuyên giảng khi chưa chính thức đăng đàn thuyết pháp.

Chính ba bài pháp đầu tiên này là nền tảng cho pháp môn Vô Niệm, mà Lục Tổ Huệ Năng đã hết lòng truyền dạy lại cho môn đồ, tứ chúng, để sớm nhận ra điều quan trọng, rốt ráo mà chư Phật bao đời đã khổ công mong chúng sanh đạt tới. Đó là, Nhận Ra Được Phật Tánh Của Mình.

Đa tạ tuệ nhãn của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đã nhìn suốt “kỳ tâm” của người thanh niên đất nghèo khổ Lĩnh Nam để hậu sinh được có Lục Tổ Huệ Năng.

Đa tạ con đò canh ba năm xưa, đã “Ưng vô sở trụ”, xuôi êm giòng pháp diệu kỳ để tròn đầy huyền nghĩa câu kinh lóng lánh Kim Cương: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.■

Nguồn: Tập San Pháp Luân 31


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 53)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 46)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 65)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 88)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 173)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 201)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 215)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 195)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 223)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 261)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 233)
Chết an lành là mong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 229)
Pháp giới là vũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 430)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 256)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 368)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 298)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 287)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 265)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 374)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 374)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 488)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 360)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 626)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 392)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 422)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 583)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 491)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 413)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 719)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 459)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 519)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 461)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 461)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 478)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 481)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 410)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 536)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 873)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 899)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 736)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1084)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 550)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 516)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 596)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 617)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 593)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 588)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 755)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 653)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 796)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant