Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài Thơ Thiền Của Trần Nhân Tông

02 Tháng Mười 201000:00(Xem: 26864)
Bài Thơ Thiền Của Trần Nhân Tông

Trần Nhân Tông (1258-1308) là con đầu của Trần Thánh Tông. Ông là một vị vua anh minh quả cảm, nhiều lần xông pha trận mạc đánh tan quân Nguyên Mông, đội quân hùng mạnh vào bậc nhất thế giới thời bấy giờ, hai lần (1258, 1288) xâm lấn nước ta.

Ông không những là vị tướng tài ba mà còn là con ngườitâm hồn phóng khoáng. Nếu đem so sánh những bài thơ Thiền và những chiến công hiển hách của ông ở trận tiền thì người ta ngỡ là của hai người khác nhau. Nhưng thật ra đó chỉ là sự thống nhất kỳ diệu giữa khí phách và tâm hồn của người Việt Nam. Ai mà không cảm thấy nỗi buồn “thu cô liêu” khi đọc những bài thơ: 

Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm 
Lòng danh lợi lạnh theo trận mưa đêm 

Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch 

Một tiếng chim kêu lại cảnh xuân tàn. 

(Mạn hững ở Sơn Phòng) 1 

Thị phi niệm trục triêu hoa lạc 
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn 

Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch 

Nhất thanh đề điểu hạ xuân tàn. 

(Sơn Phòng mạn hứng) 

Ngôi chùa cổ lạnh lẽo sau lớp khói mùa thu 
Thuyền câu hiu quạnh chuông chùa bắt đầu điểm 

Nước trong núi lặng, chim âu trắng bay qua 

Gió im mây nhởn nhơ, cây lơ thơ lá đỏ. 

(Cảnh chiều ở Châu Lạng) 2 

Cổ tự thê lương thu ái ngoại 
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ 

Thuỷ tinh sơn tĩnh bạch âu quá 

Phong định vân nhàn hồng thụ sơ. 

(Lạng Châu vãn cảnh) 


Có lẽ cũng đừng vội cho rằng đó chỉ là lời thở dài của một kẻ chán đời. Một con người chán đời không thể chấm phá đồng quê bằng những nét bút hữu tình như: 

Thôn trước thôn sau mờ mờ như khói phủ 
Cảnh vật trong bóng chiều nửa có nửa không 

Mục đồng cất tiếng sáo lùa trâu về 

Cò trắng từng đôi là là xuống đồng. 

(Ngắm cảnh ờ Thiên Trường) 3 

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên 
Bán vô bán hữu tịch dương biên 

Mục đồng địch lý quy ngưu tận 

Bạch lộ song song phi hạ điền. 

(Thiên Trường vãn vọng) 

Có lẽ cũng nên thay đổi cách nhìn. Cái mà người ta quen cho là bi quan chán đời không phải trường hợp nào cũng đúng vậy. Ở Trần Nhân Tông, không phải là tâm trạng bi quan mà chính là trạng thái đạt đạo trong tâm hồn. Ông đã bình thản trước mọi cám dỗ vật dục. Phải chăng toàn bộ tinh thần đạo Thiền Trúc Lâm của ông đã quy tụ trong bài kệ

Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên 
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên 

Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch 

Ðối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền

Tạm dịch: 
Sống ở trên đời theo với hoàn cảnh mà vui với đạo 

Ðói thì ăn, mệt thì ngủ 

Của báu sẵn trong nhà khỏi tìm kiếm 

Ðứng trước cảnh vật mà vô tâm thì không phải hỏi Thiền là gì. 

“Duyên”, tiếng Phạn gọi là Pratyaya, Pali gọi là Paccaya, có nghĩa là diều kiện. Sách Trung luận ghi : “chúng duyên hợp” (các điều kiện hội đủ). “Tuỳ duyên” tiếng Phạn gọi là Yatha-Pratyaya, nghĩa là thuận theo với biến đổi của hoàn cảnh (điều kiện). Sách Ðại thừa khởi tín luận giải thích “chân như” có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất, cũng giống như Duy thức luận, chân nhưchân lí tối cao. Trên đời này không thể có cái gì tồn tại độc lập tự nó được, mọi thứ đều do duyên khởi mà thành, cho nên tất cả là “không”. Nghĩa thứ hai, ngoài chân lí tối cao ra, chân như còn là biểu hiện của tâm, vừa ở trạng thái tịnh vừa ở trạng thái động, động - tịnh như nhau (động - tịnh nhất như), cho nên gọi là tâm chân như. Chân như vừa có tính khách thể vừa có tính chủ thể. Nói cách khác, chân như vừa bất biến vừa tuỳ duyên. Cho nên Trần Nhân Tông vừa theo với đời (tuỳ duyên) nhưng không bị đời lôi cuốn (bất biến). 

 

“Ðói thì ăn, mệt thì ngủ”, điều đó tưởng chừng quá dễ nhưng thực ra người đời lao vào cảnh bon chen cho nên ăn không ngon, ngủ không yên là chuyện thường. Mấy ai đã thực hiện được điều tưởng chừng quá dễ đó ? 

“Của báu sẵn trong nhà khỏi tìm kiếm”, Thiền tông cho rằng Phật tính có sẵn nơi con người. Ðàn kinh ghi : “Kiến tính thành Phật”. Sách Truyền tâm pháp yếu ghi : “Tổ sư Tây lai trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật. bất tại ngôn thuyết” (Tổ sư từ phương Tây đến, chỉ thẳng cho con người rằng Phật tính tại tâm chứ không phảỉ ở lời nói). 

“Ðối cảnh vô tâm”, ý nghĩa từ kinh Kim cương : “Ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm” (Ðừng để tâm biến động theo bên ngoài). Lục tổ Huệ Năng sở dĩ giác ngộ là do câu này. 

Với tâm hồn đạt đạo, Trần Nhân Tông đã bình thản trước mọi cám dỗ vật dục, từ đó yêu ra yêu, ghét ra ghét, sống ra sống, chết ra chết. Ðó là khí phách và tâm hồn của con người Việt Nam. Nếu không phải như vậy thì Trần Nhân Tông làm sao có thể nhìn con ngựa đá mà phác hoạ ra hai câu thơ để lại nghìn đời cho con cháu: 

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã 
Sơn hà thiên cổ điện kim âu 

Trần Trọng Kim dịch là : 
Xã tắc hai phen chồn ngựa đá 

Non sông nghìn thuở vững âu vàng 

Ðúng là khí phách và tâm hồn của một dân tộc bất khả chiến bại !

 

Ghi chú:

1. Mạn hứng ở Sơn Phòng. Thơ văn Lý - Trần. Nxb KHXH. Hà Nội 1989: tr469 (Ðỗ Văn Hỷ dịch) 
2. Cảnh chiều ở Châu Lạng. Sđd. tr.468 (Trần Lê Văn dịch) 

3. Ngắm cảnh ở Thiên Trường. Sđd. tr 464 (Ngô Tất Tố dịch)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9543)
Đức Phật đã từng nói rằng: "Nầy các Tỳ Kheo, bất cứ ai muốn chăm sóc ta, người ấy phải muốn chăm sóc người bệnh"
(Xem: 9471)
Bái sám nhiều mà tội diệt phước sinh là không đúng về nhân quả.
(Xem: 8007)
Giáo pháp do Đức Phật dạy có rất nhiều nhưng trọng tâm vẫn là Bát Chánh đạo.
(Xem: 8855)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu,
(Xem: 22247)
Mặt trời hừng đông. Ngày mới lại đến. Buổi sáng bắt đầu cho một ngày mới của đời sống.
(Xem: 9205)
Thiền là một cách huấn luyện tâm, do đó, nếu chúng ta càng thực tập nhiều, càng thực tập đều đặn, chúng ta càng nhìn thấy sự tiến bộ của chúng ta.
(Xem: 17645)
Suy cho cùng, chính bạn chứ không phải ai khác là người chịu trách nhiệm cho việc bạn sử dụng số ngày còn lại của mình trong cuộc đời này ra sao.
(Xem: 9953)
Đức Phật dạy: “Nhứt thiết duy tâm tạo” tất cả đều do tâm tạo, “...Duy ngã độc tôn” “cái ta” là tối cao và quan trọng nhất, quyết định tất cả,
(Xem: 10390)
Đức Phật nêu lên Sự Thật Cao Quý Thứ Nhất và gọi Sự Thật này là dukkha. Thuật ngữ dukkha trong tiếng Pa-li thường được dịch là "khổ đau" (suffering)
(Xem: 10726)
Phát Bồ-đề tâm là phát sanh một ý nguyện đạt đến giác ngộ để cứu thoát tất cả chúng sanh.
(Xem: 9600)
Khi chưa biết tu, thân ta có khi làm việc thiện lành tốt đẹp, có lúc ta làm việc xấu ác gây nhiều tội lỗi, miệng có khi nói lời ngọt ngào dễ thương, có lúc nói
(Xem: 9181)
Nếu chúng ta phản ứng mạnh mẽ với tiếng ồn, nghĩa là chúng ta dấn thân vào cuộc chiến mà chúng ta không thể nào dành được phần thắng.
(Xem: 10220)
Trong nhiều pháp thoại, Thế Tôn thường sử dụng các hình ảnh trực quan để minh họa cho những giáo huấn của Ngài.
(Xem: 9244)
Nói đến tình thương, theo thế tục, chúng ta liên tưởng đến đối tượng của tình thương với những điều kiện (như một sự trao đổi tương xứng).
(Xem: 10401)
Đạo Phật dứt khoát không bao giờ chấp nhận việc mê tín Thần quyền, nhứt là những vấn đề tin nhảm nhí, theo một niềm tin mù quáng, không được điều động bởi lý trí.
(Xem: 9500)
Theo sự chỉ dạy của Thế Tôn, người Phật tử cũng có quyền làm giàu để nâng cao sự sống ngoài việc lo tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đìnhxã hội.
(Xem: 15190)
Khi đến chùa bạn hãy nhớ những điều dưới đây không được nghĩ tới và cũng không được cầu khẩn mong muốn thành hiện thực nhé, những điều này là không nên.
(Xem: 8408)
Một vị lãnh đạo đất nước muốn giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, có được cơm no áo ấm và sống an vui, hạnh phúc trên tinh thần vô ngã, vị tha phải là người có ...
(Xem: 10998)
Từ bisức mạnh thế nào, tới mức độ nào, và có thể chuyển hóa được thế gian hay nhân loại hay không
(Xem: 9117)
Người ta thường ngạc nhiên khi khám phá ra rằng thiền rất khó hành. Nhìn bề ngoài nó có vẻ là việc đơn giản, chỉ ngồi xuống chiếc gối nhỏ và theo dõi hơi thở.
(Xem: 8372)
Những ý niệm như vô ngại, đồng thời, đồng hiện, sẵn đủ, viên mãn… không chỉ có trong kinh Hoa Nghiêm mà có trong tất cả kinh điển, nhất là Đại thừa.
(Xem: 8597)
Thế giới loài vật cũng có sự sống sinh hoạt song hành với loài người nên cũng bị vô minh chi phối.
(Xem: 14351)
Chùa Khánh Anh - Paris Pháp Quốc
(Xem: 12466)
Tìm hiểu về quá trình tu tập của Sa-môn Cồ-đàm - nhất là khi từ bỏ vị thầy thứ hai (Uất-đầu-lam-phất) cùng hội chúng, Ngài đi đến Khổ hạnh lâm trải qua 6 năm khổ hạnh;
(Xem: 9444)
Có nhiều người thích trang sức bằng những viên ngọc quý. Tuy nhiên, viên ngọc đẹp đẽ, và to lớn nhất, là viên ngọc trong tâm.
(Xem: 9141)
Môi trường sống để tu học rất quan trọng cho tiến trình thành quả của người thực hành, nếu không nhận ra sự khác biệt trên giáo pháp Đức Thế Tôn dạy và...
(Xem: 9689)
Thí dụ về chiếc bè là một trong những ngụ ngôn và ẩn dụ, quen thuộcnổi tiếng nhất của Đức Phật.
(Xem: 14574)
Khi chim còn sống trên đời Chim ăn kiến nhỏ thấy thời khó chi, Nhưng khi chim bị chết đi Kiến thời ăn nó có gì khó đâu.
(Xem: 8888)
Mỗi khi phải đương đầu với nghịch cảnh hoặc các thứ chướng ngại, thì quý vị nên xem đấy như là một món quà thấm đượm từ biĐạo Pháp mang tặng mình,
(Xem: 10304)
Chúng ta ai cũng biết sân hậnđau khổ vì nó áp lực chúng ta phải giải tỏa những mối đe dọa bằng mọi giá.
(Xem: 10278)
Đức Phật thường ví mình như một vị y sĩ, và Đạo Pháp là phương thuốc Ngài dùng để chữa bệnh.
(Xem: 9423)
"Tu là quá trình: quán chiếu nội tâm, làm triệt tiêu bản ngãchuyển hóa nghiệp lực của mình” đây là ba điều kiện tiên quyết, cốt yếu và tinh túy nhất, trong phận sự người tu.
(Xem: 9318)
Họa hay phước không phải do ngày tháng xấu, tốt tạo ra; họa hay phước là do nhân quả mà có
(Xem: 10108)
Tất cả mọi sự sống ở trên đời này từ khổ đau cho đến hạnh phúc của thế gian cũng đều từ cái ta mà ra.
(Xem: 9641)
Không làm điều ác; không chán nản, không bỏ cuộc, kiên trì và nhẫn nại quyết làm xong việc lành mới thôi; chính là hai “tướng mạo” của người trí.
(Xem: 9152)
Con ngườisinh lão bệnh tử, đó là quy luật vĩnh hằng; cũng như trái đất có thành trụ hoại không.
(Xem: 10589)
Người ta vẫn thường hay nói nghèo là khổ, nghèo khổ, chứ ít ai nói giàu khổ cả.
(Xem: 10118)
Khi tập ngồi thiền, ban đầu cần phải sổ tức (đếm hơi thở). Thời gian sau thuần thục rồi đến tùy tức, sau đó tri vọng, biết là chơn tâm…
(Xem: 9717)
Chúng ta là người tu thiền, trước tiên phải hiểu thiền là gì một cách căn bản, sau đó ứng dụng công phu mới không bị sai lệch.
(Xem: 11003)
Khi sống con người hay lãng phí thời gian làm những việc vô nghĩa, bởi lòng tham lam, ích kỷ của chính mình, tích chứa tiền bạc của cải nhưng không giúp gì cho ai?
(Xem: 18582)
Trăm năm trong cõi người ta tuy có tới ba vạn sáu ngàn ngày nhưng thật là ngắn ngủi. Càng ngắn ngủi hơn vì mấy ai sống tới trăm năm.
(Xem: 9529)
Được làm người là một phúc duyên to lớn như vậy nên Đức Phật khuyên nhắc mọi người cần phải được trân trọng và vận dụng cái phúc duyên may mắn ấy để tu tập
(Xem: 8707)
Kế thừa gia tài Chánh pháp của Phật và thầy tổ để ứng dụng tu tập, hoằng truyền giáo pháp là việc cần làm.
(Xem: 9284)
Chúng ta nghe khá nhiều về việc phải tu tập hạnh từ bi nhưng mình cứ loay hoay mãi không biết bắt đầu từ đâu!
(Xem: 8906)
Không tranh giành, tranh cãi, tranh luận, tranh chấp, tranh chiến, tranh đoạt, tranh đua; không tranh danh, tranh lợi, tranh tài, tranh công, tranh thế, tranh quyền…
(Xem: 9131)
Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Tu Bồ Đề kính cẩn đặt câu hỏi với Phật: “...Làm thế nào để an trụ tâm, làm thế nào để hàng phục tâm?”
(Xem: 8764)
Người xưa nói: “Cảnh cùng khốn phải chăng là trường thí nghiệm về nhân cách con người? Phải chăng, cùng khốn hay không cùng khốn là do hoàn cảnh.
(Xem: 9504)
Giáo lý nhà Phật nói rằng nếu ngôi nhà của tôi đẹp đẽ, ấm cúng, nhiều năng lượng, chắc chắn tôi sẽ khỏe mạnh và có bình an, nhất định tôi hạnh phúcmãn nguyện.
(Xem: 10322)
Nếu chúng ta suy ngẫm về cái chết từ trong tim ta, điều nầy có thể mang lại cho chúng ta một cái nhìn làm phong phú thêm cho cuộc sống, và cho các mối quan hệ...
(Xem: 9168)
Kinh Hoa Nghiêm chỉ dạy về pháp giới vô ngại, cho nên, ngoài những pháp quán có trong những kinh khác, đặc trưng của kinh Hoa Nghiêm là nói về ba pháp quán vô ngại.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant