Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chức cẩm hồi văn

Saturday, October 30, 201000:00(View: 5813)
Chức cẩm hồi văn

Đời nhà Tấn (265-419) ở đất Thần Châu có nàng Tô Huệ tự Nhược Lan. Nàng, dung nhan kiều mị, tài đức song toàn, văn chương xuất chúng. Khi Tô được 20 tuổi cha mẹ đính gả cho hàn sĩ Đậu Thao, người cùng quê. Vợ chồng ăn ở đầm ấm. Nàng Tô rất mực chiều chồng, đảm đương tất cả mọi việc gia đình để cho Đậu Thao có đủ thì giờ theo đuổi trau dồi nghiên bút. Người ở quanh vùng đều cho là hạnh phúchết sức ngợi khen nàng.
Sau Đậu Thao đỗ đạt làm quan, may mắn được nhâm chức tại Thần Châu, không phải đi đâu xa cả. Gia đình đã đầm ấm hạnh phúc lại càng đầm ấm hạnh phúc hơn.
Nhưng rồi vì công vụ cần thiết, vua truyền Đậu Thao ra trấn đất Lưu Sa. Vì nơi gian lao hiểm trở nên Đậu Thao đành phải để vợ ở nhà.
Thời gian qua ...
Ba năm chờ đợi, nàng Tô ngày càng sức vóc mỏi mòn, dung nhan tiều tụy. Đêm đêm, bên ngọn đèn khuya, nàng ngồi âm thầm đối bóng, tủi phận hờn duyên, lo ngại thân chồng mà giọt châu tầm tã. Lòng đau dằng dặc, nỗi nhớ triền miên nên hồn thơ dâng trào lên ngọc bút làm thành 10 bài tứ tuyệt. Nàng lại lấy gấm vuông độ chừng một thước, dùng chỉ ngũ sắc thêu 10 bài tứ tuyệt lên trên theo hình trôn ốc, từ ngoài xoáy tròn vào trung tâm bức gấm.
Nàng thêu khéo, chữ nay, nên bức gấm trông cực kỳ tuyệt mỹ. Xong nàng tự tay dâng lên nhà vua. Thấy lạ, vua truyền cho quần thần đọc, nhưng cả triều không ai đọc được. Vua đành gọi nàng:
Đứng giữa triều, Tô cất tiếng ngâm với một giọng não nùng bi thảm:
 Quân thừa hoàng chiếu an biêu thú,
 Tống quân tống biệt hà kiều lộ.
 Hàm bi yểm lụy tặng quân ngôn
 Mạc vong ân tình tiện trường khứ.
 Hà Kỳ nhất khứ âm tín đoạn,
 Ý thiếp bình vi xuân bất noãn.
 Quỳnh dao giai hạ bích đài không.
 San hô trướng lý hồng trần mãn.
 Thử thời đạo biệt mỗi kinh hồn,
 Tương tâm hà thác cánh phùng quân.
 Nhất tâm nguyện tác thương hải nguyệt
 Nhất tâm nguyện tác lãnh đầu vân.
 Lãnh vân tuế tuế phùng phu diện,
 Hải nguyệt niên niên chiếu đắc biên.
 Phi lai phi khứ đáo quân bàng
 Thiên lý vạn lý giao tương kiến.
 Thiều thiều lộ viễn quan san cách,
 Hận quân tái ngoại trường vi khách.
 Khứ thời tống biệt lư diệp hoàng
 Thùy kính kỷ kinh mai hoa bạch.
 Bách hoa tán loạn phùng xuân tảo,
 Xuân ý thôi nhân hướng thùy đạo.
 Thùy dương mãn địa vị quân phan,
 Lạc hoa mãn địa vô nhân tảo.
 Đình tiền xuân tảo chính phân phương,
 Bảo đắc tần tranh hướng họa đường.
 Vị quân đàn đắc Giang Nam khúc,
 Phó ký tình thâm đáo sóc phương.
 Sóc phương thiều đệ san hà việt.
 Vạn lý âm thư trường đoạn tuyệt.
 Ngân trang chẩm thượng lệ chiêm y,
 Kim lũ la thường hoa giai liệt.
 Tam xuân hồng nhạn đệ giang thanh,
 Thử thị ly nhân đoạn trường tình,
 Tranh huyền vị đoạn trường tiên đoạn,
 Oán kết tiên thành khúc vị thành.
 Quân kim ức thiếp trọng như san,
 Thiếp diệt tư quân bất tạm nhàn.
 Chức tương nhấn bản hiến Thiên Tử,
 Nguyện phóng nhi phu cấp bảo hoàn.

Bài này có nhiều người dịch. Dưới đây là bản dịch của Hoàng Quang:
 Chàng vâng chiếu ra yên cõi ngoại,
 Thiếp đưa chàng tới lối cầu sông.
 Ngậm sầu gạt lệ nhắn lòng,
 Chớ tham chốn khác mà vong tình này.
 Trông tin tức tới nay thăm thẳm,
 Để buồng hương chẳng ấm hơi xuân.
 Từ ngày đôi ngả cách phân,
 Màn dần bụi bám, thềm dần rêu phong.
 Tưởng ly biệt nỗi lòng kinh sợ,
 Thiếp với chàng bao thuở gặp nhau.
 Nguyện làm trăng giữa biển sâu,
 Nguyện làm mây phủ trên đầu non cao.
 Trăng giữa biển năm nào cũng thấy,
 Mây đầu non đường mấy cũng thông.
 Bay qua bay lại bên chồng,
 Dầu ngàn muôn dặm xa trông như gần.
 Quan san ấy mấy lần trở cách,
 Hiềm nỗi chàng làm khách rất lâu.
 Chàng đi mới ố bông lau,
 Mà nay mấy độ trắng màu hoa mai.
 Hoa trăm thức xuân vui hớn hở,
 Xuân giục người than thở với ai.
 Dương kia đủ những tơ dài,
 Hoa kia rã cánh không người quét cho.
 Sân xuân sớm thơm tho trăm thức,
 Chốn họa đường lực bận đàn tranh.
 Giang Nam năm khúc rành rành,
 Mượn đầu năm mong gởi tình sóc phương.
 Sóc phương ấy đôi đường diệu vợi,
 Âm thư này nhắn gởi khôn thông,
 Gối riêng nước mắt tuôn dòng,
 Xiêm thêu áo vẽ lâu cùng mục tan.
 Ba xuân tới tiếng nhàn nhắn gởi,
 Xuân giục người bối rối như tơ.
 Năm dây còn đón sờ sờ;
 Buồn đà đứt ruột, gảy chưa rồi đàn.
 Chàng thương thiếp còn hơn núi nặng,
 Thiếp nhớ chàng tình chẳng kém thua.
 Dệt đem bức gấm dâng vua,
 Xét lòng dạ thiếp tha cho chồng về.

Ngâm xong, nàng Tô nước mắt đầm đìa. Nhà vua quá cảm động không dám nhìn nàng, vội hạ chiếu cho Đậu Thao về ngay.
Mười bài thơ ấy được truyền tụng với bức gấm thêu, ai cũng nước nở khen cho Tô là một bực kỳ tài. Trước họ gọi bức gấm thơ ấy là "Toàn Loa Đồ" (Bức đồ hình tròn trôn ốc), sau lại cho tên không xứng với giá trị của tác phẩm nên đổi là "Hồi Văn Cách" (Bài văn có tác dụng làm cho người đi biên thú được trở về), nhưng cũng vẫn chưa thấy thỏa đáng. Cuối cùng, họ lại đổi và thêm tên tác giả là "Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn".
Thông cảm mối tình sâu đậm của nàng Tô, cổ nhạc Việt Nam có người đã dựa theo bài "Chức Cẩm Hồi Văn" mà sáng tác một bài hát điệu Nam Ai, cũng nhan đề là "Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn". Lời lẽ lưu loát, ý tình nồng nàn, nhưng không biết tác giả là ai. Bài như thế này:
 Khi vâng chiếu chỉ ra đề cờ,
 Từ chàng đi, thiếp bặt tin đợi chờ.
 Hồng nhạn kêu thu sông Hớn bơ vơ.
 Áo não nùng khiến dạ ngẩn ngơ.
 Trách bấy ông Tơ gieo chi mối sầu như tóc tơ.
 Nghĩ mấy lời từ hồi ban sơ.
 Nhớ những khi thiếp nguyện trăm năm tam tùng thờ.
 Chàng mần răng ý lẳng lơ.
 Chân đi thăm thẳm, mắt ngóng luống nhớ cách núi ải, biết chừ trao thơ
 Má phấn duyên phai lạt, hồng nhan trông đợi chờ
 Trướng lý để bụi trần nhơ.
 Kìa cờ ai, nghe tiếng trống vẫn bóng xa xa
 Hay là chiếu triệu chồng ta.
 Chốn giang biên, chàng ôi có hay chăng là
 Để lụy tương tư này như chút phận Hằng Nga.
 Đêm đông quạnh quẽ, tiếng quyên hòa
 Gìn lòng son nỡ để cho trăng già
 Luông tuồng bao nỡ vắng bặt nhạn tin qua.
 Hay là ong bướm đã say đắm mê hoa,
 Chim ô thước qua sông Ngân thường,
 Nỡ nào để cho loan phụng Sâm Thương.
 Chẳng biết no nao cá nước hội một trường,
 Kẻo nặng nề hai chữ uyên ương
 Ong bướm dẫu say mên hoa hường,
 Cũng đoái tưởng chút nghĩa tào khương.
 Chim bao nài bay qua cho tỏ tường.
 Để trông đợi tháng ngày thương.
 Trông tin chàng, đêm nằm mơ màng,
 Tỉnh giấc hòe trằn trọc thở than.
 Năm canh sầu riêng cho bạn vàng,
 Phận làm trai hiếu nghĩa trung cang.
 Bệ ngọc trên báu kiếm sắc phán.
 Chốn giang biên ra khử trừ đảng gian.
 Nước noan xa cách muôn dặm, da người bọc mình chàng.
 Tuyết sương lạnh nơi chốn Đồng quan
 Chàng trừ mô ra giai đấi khởi ngụy bang,
 Cho rồi, đặng trở về Trường An.
 Kẻo để tương tư này mày xanh sầu võ vàng.
 Soi đài gương luống thẹn hồng nhan.
 Châu rơi lã chã lệ tuông đôi hàng,
 Hiềm vì ai xui duyên nợ lỡ làng.
 Ngàn trùng xa cách như khách ở ngoại bang.
 Bao nỡ bỏ cái nghĩa Ngưu lang,
 Thuở ra đi lau lá vàng.
 Bây chừ đã trắng mai rỡ ràng.
 Cung quế xơ rơ bóng nguyệt đã tàn.
 Ơn kia chưa trả oán nọ liền mang.
 Nghe tiếng dế năm canh mơ màng,
 Ngỡ tạc ngựa chàng đã hồi bang.
 Bởi duyên cớ nào bạc đen lòng phụ phàng.
 Để gió thảm mưa sầu khan.
 Chẳng biết no nao yên gót trở về
 Trên ngai vàng bạc thẻ bêu kia.
 Răng rứa bạn niềm tây nhớ nghĩa, nhớ nghĩa
 Mây bay khói tỏa in cờ rìa,
 Trống trường thành giục điểm canh khuya.
 Bâng khuâng nhớ chàng như nhạn chít lìa.
 Thiếp lạy ông Trời: chớ có phân chia.
 Từ chàng ra chốn cung đao,
 Thiếp trông tin chàng tựa cá trông sao.
 Ôm gối phụng chờ trông áo não, áo não ...
 Sao quên lời núi hẹn sông giao.
 Ai đi lấp thảm cho khuây má đào
 Tương tư này rằng thấu cung cao.
 Ơn trên tha về đặng tỏ nỗi âm hao.
 Hiệp một nhà mới phỉ ước ao. (1)


(1) Vì không tìm được bản chính, chỉ nghe người ca truyền mà sưu tập lại, hẳn có ít chỗ chưa được ổn đáng. Vậy xin cáo lỗi cùng tác giả và bạn đọc; và mong được bổ chính cho. Nhân đây xin cảm tạ lòng tốt của ông Ngô Văn Lương (ở Bạc Liêu), người đã giúp một phần cho tài liệu này.
Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 5773)
Có lần, bố đi chợ phiên hỏi hai con vợ kế muốn xin quà gì. Một cô xin quần áo đẹp, một cô xin ngọc.
(View: 5864)
Xưa có một bác nông dân nghèo. Buổi tối, bác thường ngồi bên bếp lửa, nói với bác gái đang xe chỉ...
(View: 5931)
Ngày xưa có một cô bé thùy mị, ai thấy cũng yêu. Yêu nhất vẫn là bà, có gì bà cũng đem cho cháu.
(View: 6056)
Một bác thợ xay có ba con trai, một nhà xay lúa, một con lừa và một con mèo. Các con trai xay bột...
(View: 5828)
Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chung quanh có một khu rừng lớn.
(View: 6378)
Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grêten. Ả thường đi giày gót đỏ khi dạo chơi. Ả ngó đông ngó tây...
(View: 6128)
Ngày xưa xảy ra một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống.
(View: 5601)
Hanh tính lười biếng. Chú chẳng phải làm gì khác ngoài việc hàng ngày chăn một con dê ở ngoài cánh đồng.
(View: 6014)
Ngày xưa có hai vợ chồng một bác tiều phu nghèo khó, sống ở ven một khu rừng lớn. Gia đình có hai con.
(View: 5710)
Ngày xưa, có một bà già sống một mình trong một tòa lâu đài cổ giữa một khu rừng bao la, rậm rạp. Đó là một mụ phù thủy cừ khôi.
(View: 6148)
Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm nông dân.
(View: 8174)
Ngày xưa có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã Lâu. Bà có một cô con gái rất xinh đẹp.
(View: 7482)
Âu Dã Tử là một kiếm sư đại tài thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông ta đúc ra những thanh gươm rất tốt, chém sắt như chém bùn. Vua nước Việt là Doãn Thường bèn triệu tới...
(View: 6675)
Ninh Thích, người nước Vệ đời Xuân Thu. Người có tài kinh bang tế thế. Lúc còn hàn vi, chưa gặp thời, mình mặc áo cộc, đầu đội nón rách, đi chân không...
(View: 15251)
Nguyên Nguyễn Tịch, người đời nhà Tấn, là người rất ưa rượu và đàn. Làm quan rồi cáo bịnh về nhà, kết bạn cùng Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn...
(View: 7282)
Thắng trận, Sở Trang vương đời Xuân Thu truyền bày tiệc liên hoan, gọi là "Thái bình yến". Phàm các quan văn võ bất cứ cấp nào đều được tham dự.
(View: 13221)
Tây Thi là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt đời Chiến Quốc, có tiếng là "Lạc nhạn" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(View: 12212)
Ngũ Kinh (năm quyển sách) cũng như Tứ Thư là những sách làm nền tảng của Nho giáo. Nguyên trước có sáu kinh nhưng vì sự đốt sách của Tần Thủy Hoàng...
(View: 8986)
Tứ ThưNgũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
(View: 15074)
Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thong thả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn.
(View: 8759)
Lễ tang là lễ đặt ra để tỏ lòng thương trọng và kính thờ người chết. Theo Khổng Tử thì trị thiên hạ "trọng nhứt là ba việc: ăn, tang và tế" (Sở trọng giả, thực tang tế).
(View: 7002)
"Ngọc tỉnh liên" là "Hoa sen trong giếng ngọc". Đây là bài phú của Mạc Đĩnh Chi. Ông đỗ Trạng nguyên, khi vào bái yết nhà vua, Trần Anh Tông thấy hình dung ông xấu xí quá...
(View: 10830)
Một ông lão ở gần cửa ải Nhạn Môn, nơi giáp giới nước Tàu với Phiên Quốc (Hồ) có con ngựa. Một hôm, con ngựa đi mất. Người quen thuộc đều đến thăm hỏi, chia buồn.
(View: 6180)
Đời nhà Đường (618-907), triều Lý Thái Tông (Lý Thế Dân), niên hiệu Trinh Quán năm thứ 13, gần thành Trường An có con sông Kinh, nước trong vắt.
(View: 10422)
Đuốc hoa do chữ "hoa chúc" là đèn cầy, nến đốt trong phòng của vợ chồng đêm tân hôn. Tiếng "chúc" thời cổ là "đuốc" tức bó đóm to. Ngày nay gọi là "Hỏa bả".
(View: 7460)
Thời xưa, người ta tiễn nhau thường bẻ cành liễu đưa cho người đi. Dương Quan là một cửa ảibiên giới tỉnh Thiểm Tây. Đường thi có bài "Tống Nguyên Nhị sứ An Tây"...
(View: 7111)
Hàn Tín người đất Hoài Âm nước Sở đời Tây Hán, thuở hàn vi thường câu cá ở sông Hoài. Có khi cả ngày tìm không được một bữa cơm. Phiếu mẫu thương thình thường cho cơm ăn.
(View: 6232)
Tướng nước Yên là nhạc Nghị đem quân đánh nước Tề. Trong vòng 6 tháng mà hạ được 70 thành của Tề. Chỉ còn hai thành thôi là Cử Châu và Tức Mặc đương hấp hối trước lực lượng của Yên.
(View: 6319)
Việt Nam, những nghi lễ về cưới gả vốn của Trung Hoa truyền sang từ thời Bắc thuộc (111 trước D.L.) do hai quan thái thú Tích Quang và Nhâm Diên.
(View: 6337)
Nước Nam vào thời kỳ Nam Bắc phân tranh (1528-1788). Từ Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê đến nhà Lê trung hưng, nước Nam lại chia làm hai miền: Bắc thuộc họ Trịnh, Nam thuộc họ Nguyễn.
(View: 8494)
Bình Nguyên Quân tên Thắng, người nước Triệu đời Chiến Quốc. Được vua Huệ vương cử làm Tướng quốc phong cho đất Bình Nguyên nên gọi là Bình Nguyên Quân.
(View: 9054)
Hậu Nghệ có công bắn 9 mặt trời cứu bá tính khỏi chết trong biển lửa nên được nhân dân kính mến, suy tôn làm hoàng đế. Lên làm vua, Nghệ lại cướp giựt của cải của nhân dân.
(View: 8398)
Hán đánh triệu. Tướng Hán là Hàn Tín bảo các tướng sĩ của mình: - Hôm nay phá Triệu ắt thành công. Vậy ba quân chỉ ăn cơm sơ qua đỡ lòng...
(View: 6000)
Tề là nước tiếp giáp của Lỗ. Trước sự cường thịnh của Lỗ, Tề hầu là Tề Cảnh Công lo sợ bị Lỗ thôn tính. Quan đại phu nước Tề là Lê Di hiến kế...
(View: 5938)
Sô Kỵ là một người hiền lại có tài chính trị đời Chiến Quốc, làm Tướng quốc nước Tề dưới triều Tề Uy Vương. Ông hết lòng lo chính sự, thường lưu ý dò xét trong bọn các quan ấp để xem ai hiền, ai không hiền.
(View: 6035)
Nguyên nhà Đường từ đời vua Đại Tông (763-765) đến Hy Tông (874-888) thì quốc thế càng suy vi. Phiên trấn hoành bạo ở ngoài, hoạn quan chuyên chính bên trong.
(View: 6086)
Đời Xuân Thu, Sái Hầu và Tức Hầu cùng lấy gái nước Trần làm phu nhân. Tức phu nhân là nàng Tức Vĩ nhan sắc tuyệt vời. Nhân khi về thăm cố quốc, ngang qua nước Sái, Sái Hầu mời vào cung thết đãi.
(View: 5639)
Trong kho tàng dân ca Việt Nam, trống quân là một loại hát rất bình dânphổ biến tại miền Bắc; và đặc biệt hát trong các dịp hội hè mùa thu...
(View: 6271)
Điêu Thuyền là một giai nhân tuyệt sắc đời mạt Hán. Cũng như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Ngọc Hoàn, Điêu Thuyền có tiếng là "bế nguyệt" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(View: 5506)
Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu...
(View: 6601)
Đời Tam Quốc, em trai của Ngô chúa Tôn Quyền là Tôn Dực làm Thái thú quận Đan Dương. Dực vốn tính cương cường, nóng nảy lại hay rượu.
(View: 6558)
Hội đồng Trạch có cả chục ngàn mẫu ruộng. Theo lời cháu chắt ông kể lại, toàn tỉnh Bạc Liêu bấy giờ có 13 lô ruộng thì hết 11 lô là của ông Trạch.
(View: 6392)
Điển tích "Ba đào"- sóng lớn - trong sách Dị Văn lục: Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hoá Chiêu, Lương Tiểu Nga.
(View: 7874)
"Tung hoành gia" là một học phái trong Cửu Lưu, tức là chín học phái lớn nhứt hay là chín dòng tư tưởng đời Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung Hoa...
(View: 9590)
Đời Tam Quốc, nhà Thục đến hồi suy mạt. Thục chúa là Lưu Thiện, con của Lưu Bị, sau khi Khổng Minh chết, nghe lời gian thần là Hoàng Hạo đắm mê tửu sắc, không nối được chí lớn của cha...
(View: 8990)
Chu Công tên Đán, người đời nhà Chu (1135-221 trước D.L.), có tài trị nước. "Thổ bộ" do nguyên câu: "Nhất phạn tam thổ bộ" nghĩa là "Một bữa ăn phải nhả cơm ba lần".
(View: 7030)
Tư Mã Thiên tự Tử Thường (145-87 trước D.L.), người huyện Long Môn (nay thuộc huyện Hán Thành, tỉnh Thiểm Tây) đời Hán Vũ đế. Cha của ông là Tư Mã Đàm, một nhà văn học danh tiếng làm chức thái sử tại triều.
(View: 5867)
"Mây Tần" nghĩa bóng chỉ nhớ nhà, nhớ quê hương, cha mẹ. Còn những tiếng "Mây trắng", "Mây Hàng", "Mây bạc", "Mây vàng" cũng để nói ý nhớ gia đình, nhớ cha mẹ, quê hương.
(View: 6840)
"Tiền Xích Bích phú " là một áng văn chương kiệt tác của Tô Đông Pha (1036-1101), một văn hào đời nhà Tống (950-1275). Đông Pha tên là Thức, tự Tử Chiêm...
(View: 8842)
Nước Việt, năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua. Vua Lê Chiêu Tông bị họ Mạc bắt nhốt định giết chết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant