Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chức cẩm hồi văn

30 Tháng Mười 201000:00(Xem: 5266)
Chức cẩm hồi văn

Đời nhà Tấn (265-419) ở đất Thần Châu có nàng Tô Huệ tự Nhược Lan. Nàng, dung nhan kiều mị, tài đức song toàn, văn chương xuất chúng. Khi Tô được 20 tuổi cha mẹ đính gả cho hàn sĩ Đậu Thao, người cùng quê. Vợ chồng ăn ở đầm ấm. Nàng Tô rất mực chiều chồng, đảm đương tất cả mọi việc gia đình để cho Đậu Thao có đủ thì giờ theo đuổi trau dồi nghiên bút. Người ở quanh vùng đều cho là hạnh phúchết sức ngợi khen nàng.
Sau Đậu Thao đỗ đạt làm quan, may mắn được nhâm chức tại Thần Châu, không phải đi đâu xa cả. Gia đình đã đầm ấm hạnh phúc lại càng đầm ấm hạnh phúc hơn.
Nhưng rồi vì công vụ cần thiết, vua truyền Đậu Thao ra trấn đất Lưu Sa. Vì nơi gian lao hiểm trở nên Đậu Thao đành phải để vợ ở nhà.
Thời gian qua ...
Ba năm chờ đợi, nàng Tô ngày càng sức vóc mỏi mòn, dung nhan tiều tụy. Đêm đêm, bên ngọn đèn khuya, nàng ngồi âm thầm đối bóng, tủi phận hờn duyên, lo ngại thân chồng mà giọt châu tầm tã. Lòng đau dằng dặc, nỗi nhớ triền miên nên hồn thơ dâng trào lên ngọc bút làm thành 10 bài tứ tuyệt. Nàng lại lấy gấm vuông độ chừng một thước, dùng chỉ ngũ sắc thêu 10 bài tứ tuyệt lên trên theo hình trôn ốc, từ ngoài xoáy tròn vào trung tâm bức gấm.
Nàng thêu khéo, chữ nay, nên bức gấm trông cực kỳ tuyệt mỹ. Xong nàng tự tay dâng lên nhà vua. Thấy lạ, vua truyền cho quần thần đọc, nhưng cả triều không ai đọc được. Vua đành gọi nàng:
Đứng giữa triều, Tô cất tiếng ngâm với một giọng não nùng bi thảm:
 Quân thừa hoàng chiếu an biêu thú,
 Tống quân tống biệt hà kiều lộ.
 Hàm bi yểm lụy tặng quân ngôn
 Mạc vong ân tình tiện trường khứ.
 Hà Kỳ nhất khứ âm tín đoạn,
 Ý thiếp bình vi xuân bất noãn.
 Quỳnh dao giai hạ bích đài không.
 San hô trướng lý hồng trần mãn.
 Thử thời đạo biệt mỗi kinh hồn,
 Tương tâm hà thác cánh phùng quân.
 Nhất tâm nguyện tác thương hải nguyệt
 Nhất tâm nguyện tác lãnh đầu vân.
 Lãnh vân tuế tuế phùng phu diện,
 Hải nguyệt niên niên chiếu đắc biên.
 Phi lai phi khứ đáo quân bàng
 Thiên lý vạn lý giao tương kiến.
 Thiều thiều lộ viễn quan san cách,
 Hận quân tái ngoại trường vi khách.
 Khứ thời tống biệt lư diệp hoàng
 Thùy kính kỷ kinh mai hoa bạch.
 Bách hoa tán loạn phùng xuân tảo,
 Xuân ý thôi nhân hướng thùy đạo.
 Thùy dương mãn địa vị quân phan,
 Lạc hoa mãn địa vô nhân tảo.
 Đình tiền xuân tảo chính phân phương,
 Bảo đắc tần tranh hướng họa đường.
 Vị quân đàn đắc Giang Nam khúc,
 Phó ký tình thâm đáo sóc phương.
 Sóc phương thiều đệ san hà việt.
 Vạn lý âm thư trường đoạn tuyệt.
 Ngân trang chẩm thượng lệ chiêm y,
 Kim lũ la thường hoa giai liệt.
 Tam xuân hồng nhạn đệ giang thanh,
 Thử thị ly nhân đoạn trường tình,
 Tranh huyền vị đoạn trường tiên đoạn,
 Oán kết tiên thành khúc vị thành.
 Quân kim ức thiếp trọng như san,
 Thiếp diệt tư quân bất tạm nhàn.
 Chức tương nhấn bản hiến Thiên Tử,
 Nguyện phóng nhi phu cấp bảo hoàn.

Bài này có nhiều người dịch. Dưới đây là bản dịch của Hoàng Quang:
 Chàng vâng chiếu ra yên cõi ngoại,
 Thiếp đưa chàng tới lối cầu sông.
 Ngậm sầu gạt lệ nhắn lòng,
 Chớ tham chốn khác mà vong tình này.
 Trông tin tức tới nay thăm thẳm,
 Để buồng hương chẳng ấm hơi xuân.
 Từ ngày đôi ngả cách phân,
 Màn dần bụi bám, thềm dần rêu phong.
 Tưởng ly biệt nỗi lòng kinh sợ,
 Thiếp với chàng bao thuở gặp nhau.
 Nguyện làm trăng giữa biển sâu,
 Nguyện làm mây phủ trên đầu non cao.
 Trăng giữa biển năm nào cũng thấy,
 Mây đầu non đường mấy cũng thông.
 Bay qua bay lại bên chồng,
 Dầu ngàn muôn dặm xa trông như gần.
 Quan san ấy mấy lần trở cách,
 Hiềm nỗi chàng làm khách rất lâu.
 Chàng đi mới ố bông lau,
 Mà nay mấy độ trắng màu hoa mai.
 Hoa trăm thức xuân vui hớn hở,
 Xuân giục người than thở với ai.
 Dương kia đủ những tơ dài,
 Hoa kia rã cánh không người quét cho.
 Sân xuân sớm thơm tho trăm thức,
 Chốn họa đường lực bận đàn tranh.
 Giang Nam năm khúc rành rành,
 Mượn đầu năm mong gởi tình sóc phương.
 Sóc phương ấy đôi đường diệu vợi,
 Âm thư này nhắn gởi khôn thông,
 Gối riêng nước mắt tuôn dòng,
 Xiêm thêu áo vẽ lâu cùng mục tan.
 Ba xuân tới tiếng nhàn nhắn gởi,
 Xuân giục người bối rối như tơ.
 Năm dây còn đón sờ sờ;
 Buồn đà đứt ruột, gảy chưa rồi đàn.
 Chàng thương thiếp còn hơn núi nặng,
 Thiếp nhớ chàng tình chẳng kém thua.
 Dệt đem bức gấm dâng vua,
 Xét lòng dạ thiếp tha cho chồng về.

Ngâm xong, nàng Tô nước mắt đầm đìa. Nhà vua quá cảm động không dám nhìn nàng, vội hạ chiếu cho Đậu Thao về ngay.
Mười bài thơ ấy được truyền tụng với bức gấm thêu, ai cũng nước nở khen cho Tô là một bực kỳ tài. Trước họ gọi bức gấm thơ ấy là "Toàn Loa Đồ" (Bức đồ hình tròn trôn ốc), sau lại cho tên không xứng với giá trị của tác phẩm nên đổi là "Hồi Văn Cách" (Bài văn có tác dụng làm cho người đi biên thú được trở về), nhưng cũng vẫn chưa thấy thỏa đáng. Cuối cùng, họ lại đổi và thêm tên tác giả là "Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn".
Thông cảm mối tình sâu đậm của nàng Tô, cổ nhạc Việt Nam có người đã dựa theo bài "Chức Cẩm Hồi Văn" mà sáng tác một bài hát điệu Nam Ai, cũng nhan đề là "Tô Huệ Chức Cẩm Hồi Văn". Lời lẽ lưu loát, ý tình nồng nàn, nhưng không biết tác giả là ai. Bài như thế này:
 Khi vâng chiếu chỉ ra đề cờ,
 Từ chàng đi, thiếp bặt tin đợi chờ.
 Hồng nhạn kêu thu sông Hớn bơ vơ.
 Áo não nùng khiến dạ ngẩn ngơ.
 Trách bấy ông Tơ gieo chi mối sầu như tóc tơ.
 Nghĩ mấy lời từ hồi ban sơ.
 Nhớ những khi thiếp nguyện trăm năm tam tùng thờ.
 Chàng mần răng ý lẳng lơ.
 Chân đi thăm thẳm, mắt ngóng luống nhớ cách núi ải, biết chừ trao thơ
 Má phấn duyên phai lạt, hồng nhan trông đợi chờ
 Trướng lý để bụi trần nhơ.
 Kìa cờ ai, nghe tiếng trống vẫn bóng xa xa
 Hay là chiếu triệu chồng ta.
 Chốn giang biên, chàng ôi có hay chăng là
 Để lụy tương tư này như chút phận Hằng Nga.
 Đêm đông quạnh quẽ, tiếng quyên hòa
 Gìn lòng son nỡ để cho trăng già
 Luông tuồng bao nỡ vắng bặt nhạn tin qua.
 Hay là ong bướm đã say đắm mê hoa,
 Chim ô thước qua sông Ngân thường,
 Nỡ nào để cho loan phụng Sâm Thương.
 Chẳng biết no nao cá nước hội một trường,
 Kẻo nặng nề hai chữ uyên ương
 Ong bướm dẫu say mên hoa hường,
 Cũng đoái tưởng chút nghĩa tào khương.
 Chim bao nài bay qua cho tỏ tường.
 Để trông đợi tháng ngày thương.
 Trông tin chàng, đêm nằm mơ màng,
 Tỉnh giấc hòe trằn trọc thở than.
 Năm canh sầu riêng cho bạn vàng,
 Phận làm trai hiếu nghĩa trung cang.
 Bệ ngọc trên báu kiếm sắc phán.
 Chốn giang biên ra khử trừ đảng gian.
 Nước noan xa cách muôn dặm, da người bọc mình chàng.
 Tuyết sương lạnh nơi chốn Đồng quan
 Chàng trừ mô ra giai đấi khởi ngụy bang,
 Cho rồi, đặng trở về Trường An.
 Kẻo để tương tư này mày xanh sầu võ vàng.
 Soi đài gương luống thẹn hồng nhan.
 Châu rơi lã chã lệ tuông đôi hàng,
 Hiềm vì ai xui duyên nợ lỡ làng.
 Ngàn trùng xa cách như khách ở ngoại bang.
 Bao nỡ bỏ cái nghĩa Ngưu lang,
 Thuở ra đi lau lá vàng.
 Bây chừ đã trắng mai rỡ ràng.
 Cung quế xơ rơ bóng nguyệt đã tàn.
 Ơn kia chưa trả oán nọ liền mang.
 Nghe tiếng dế năm canh mơ màng,
 Ngỡ tạc ngựa chàng đã hồi bang.
 Bởi duyên cớ nào bạc đen lòng phụ phàng.
 Để gió thảm mưa sầu khan.
 Chẳng biết no nao yên gót trở về
 Trên ngai vàng bạc thẻ bêu kia.
 Răng rứa bạn niềm tây nhớ nghĩa, nhớ nghĩa
 Mây bay khói tỏa in cờ rìa,
 Trống trường thành giục điểm canh khuya.
 Bâng khuâng nhớ chàng như nhạn chít lìa.
 Thiếp lạy ông Trời: chớ có phân chia.
 Từ chàng ra chốn cung đao,
 Thiếp trông tin chàng tựa cá trông sao.
 Ôm gối phụng chờ trông áo não, áo não ...
 Sao quên lời núi hẹn sông giao.
 Ai đi lấp thảm cho khuây má đào
 Tương tư này rằng thấu cung cao.
 Ơn trên tha về đặng tỏ nỗi âm hao.
 Hiệp một nhà mới phỉ ước ao. (1)


(1) Vì không tìm được bản chính, chỉ nghe người ca truyền mà sưu tập lại, hẳn có ít chỗ chưa được ổn đáng. Vậy xin cáo lỗi cùng tác giả và bạn đọc; và mong được bổ chính cho. Nhân đây xin cảm tạ lòng tốt của ông Ngô Văn Lương (ở Bạc Liêu), người đã giúp một phần cho tài liệu này.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6894)
Vương Tường, đời Tần, mồ côi mẹ, phải sống với dì ghẻ. Bà dì ghẻ rất độc ác, tuy vậy, Vương Tường vẫn một lòng hiếu thảo.
(Xem: 12333)
"Nằm gai nếm mật" do chữ "Ngọa tân thường đảm". Đời Xuân Thu (722-479 trước D.L.), hai nước Ngô và Việt đánh nhau. Sau trận đại bại tại Cối Kê...
(Xem: 41457)
Quản Lộ tự Công Minh, vốn người ở đất Bình Nguyên đời Tam Quốc (220-264) diện mạo xấu xí, thích uống rượu. Từ bé, Lộ ham xem thiên văn...
(Xem: 6776)
Ngày xưa có một nhà vua, tuổi quá ngũ tuần rồi mà chưa được xem một quyển sách nào. Bộ sách ông thèm khát được đọc là bộ "Lịch sử loài người"...
(Xem: 8826)
Tục xưa truyền Sở Tương Vương nằm mơ thấy thần nữ trên núi Vu Sơn, hỏi ở đâu lại thì đáp rằng: "Thần nữ thường làm mây buổi sáng, làm mưa buổi chiều".
(Xem: 8983)
Ngày xưa có một người nhà quê lấy phải vợ độc ác. Người vợ này đối xử với mẹ chồng rất là hỗn láo vô lễ. Người chồng khuyên hoài không được, bèn nghĩ ra một kế.
(Xem: 9271)
Hiện nay, truyền thuyết Lương Sơn Bá-Chúc Anh Đài được lưu truyền dưới nhiều hình thức nghệ thuật khác như kể chuyện, ca dao, truyền kỳ, kịch, khúc nghệ, âm nhạc, v.v
(Xem: 9205)
Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, lúc nàng Kiều bán mình chuộc tội cho cha, sắp sửa về ở cùng Mã Giám Sinh, nàng nhắn nhủ với em là Thúy Vân...
(Xem: 24778)
"Chương Đài" là tên một con đường ở thành Trường An bên Tàu. "Hỏi Liễu Chương Đài" là hỏi thăm cây liễu ở đường Chương Đài. Đây có nghĩa là hỏi thăm người tình nhân cũ...
(Xem: 10252)
Theo tục lệ Việt Nam, để hoàn tất một đám cưới, người ta phải có đủ 6 lễ, gọi là Lục Lễ: 1/ Nạp Thái: Nhà trai nhờ người đến nhà gái ướm ý...
(Xem: 110167)
Lục dục ( 六欲 ) gồm: 1. Sắc dục: ham muốn nhìn thấy sắc đẹp. 2. Thinh dục: ham muốn nghe âm thanh êm tai...
(Xem: 9213)
Vào cuối thế kỷ thứ hai, Triệu Thị Trinh (bà Triệu) cùng anh là Triệu Quốc Đạt lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của nhân dân Giao-châu chống quân Ngô. Ban đầu Triệu Quốc Đạt khuyên can...
(Xem: 8099)
Năm Tiết Đào lên tám, một hôm vào mùa thu, Tiết Đào đứng chơi bên cạnh cha, gần một cây ngô đồng. Cây đã già, cành lá sum sê đứng sừng sững trước nhà...
(Xem: 13227)
Ngụy Thù, người nước Tấn, có người vợ lẻ trẻ đẹp. Lúc Ngụy Thù gần chết, không muốn cho người vợ thuộc về người khác, bèn dặn con là Ngụy Khỏa phải chôn sống nàng...
(Xem: 7892)
Trên đồ sứ Trung Hoa, ta thường thấy vẽ 7 ông cụ già ngồi trong rừng tre, kẻ đánh cờ, gẩy đàn, người uống rượu ngâm thơ. Đó là hình ảnh của Trúc Lâm Thất Hiền...
(Xem: 18219)
Trong sách "Quần ngọc chú" có ghi lại chuyện Tỉnh Lang đi chơi chùa Nam Huệ Tự. Ở chùa, Tỉnh Lang nằm chơi một lúc đã ngủ thiếp đi không hay biết gì.
(Xem: 6219)
Trịnh Công Sơn đã nói rằng ông đặt nghệ danh cho ca sĩ Lệ Mai là Khánh Ly bởi vì ông hâm mộ hai nhân vật trong lịch sử là Khánh Kỵ và Yêu Ly.
(Xem: 5876)
Thôi Hộ, một danh sĩ đời nhà Đường (618-907), nhân dự hội Đạp Thanh đến Đào Hoa Trang, gõ cửa một nhà xin được giải khát. Một thiếu nữ đứng thập thò bên cửa...
(Xem: 9022)
Trung Quốc, đời nhà Trần, người hầu cận Thái Tử là Từ Đức Ngôn có tình với Nhạc Xương công chúa. Khi nhà Trần suy loạn, Từ bảo công chúa:- Nước mất, nàng tất lọt vào nhà quyền quý.
(Xem: 58708)
Trong "Nam Kha ký thuật" của Lý Công Tá đời nhà Đường có kể truyện Thuần Vu Phần nằm mộng thấy chàng đến nước Hòe An. Thuần được vua Hòe An cho vào bái yết.
(Xem: 6834)
Thuần Vu Phần ngày xưa rất nghèo, nằm ngủ bên gốc cây hòe, chiêm bao thấy hai sứ giả mời ông làm Phò mã,...
(Xem: 26314)
"Hoàng lương" có nghĩa là kê vàng. Ngày xưa có Lư Sinh đi thi không đỗ, vào hàng cơm nghỉ chân. Có một lão già cho mượn một cái gối nằm.
(Xem: 13553)
Thời Ngũ Đại, có một người tên là Mã Ân, tiếm ngôi vua. Mã Ân nguyên trước chỉ là một vị quan võ nhỏ, bộ hạ của quan Vũ An Tiết Độ Sứ đời Đường...
(Xem: 6764)
Dương Quý Phi (chữ Hán:楊貴妃, 719 – 756) là một cung phi của Đường Minh Hoàng. Bà được xếp vào một trong Tứ đại mĩ nhân của lịch sử Trung Quốc
(Xem: 40922)
"Ba sinh" do chữ "Tam sinh" nghĩa là ba kiếp luân chuyển: kiếp này sang kiếp khác. Duyên nợ ba sinhduyên nợ từ ba kiếp với nhau.
(Xem: 9189)
Câu thành ngữ này có nghĩa là bàn định với con cáo hoặc con hổ để lột da chúng. Nay thường dùng để ví về những việc bàn luận đều phải hy sinh lợi ích của đối phương...
(Xem: 9035)
Điển tích Tơ Hồng do chuyện ngày xưa, bên Tàu có một người tên là Vi Cố, một bữa đi chơi trăng, bắt gặp một ông già đang ngồi xe các sợi dây đỏ.
(Xem: 6399)
Chim Cuốc còn có tên là Đỗ Quyên, Tử Quy hay Đỗ Vũ. Giống chim này, đầu mỏ hơi cong, miệng to đuôi dài, lưng màu tro, bụng sắc trắng có một đường đen...
(Xem: 11955)
Chim Việt là loài chim sinh ở đất Việt, thuộc phía nam nước Tàu. Mỗi năm cứ đến buổi đầu thu, từng đàn chim Việt bay sang phương Bắc để kiếm ăn.
(Xem: 19082)
Ngày nay, mọi người đều hiểu thành ngữ này là một cách nói ngoa dụ để chỉ người đàn bà rất đẹp, giống như cách hiểu thành ngữ "hoa hờn nguyệt thẹn"...
(Xem: 10267)
"Chắp cánh, liền cành" tức là "Chim chắp cánh, cây liền cành". Sách Nhĩ Nhã chép: Chim Kiêm giống chim le le, lông màu xanh, chỉ có một cánh và một mắt, thường ở phương Nam.
(Xem: 41511)
Hợp Phố xưa thuộc tỉnh Giao Châu, nay là Quảng Đông. Vào thời Bắc thuộc, miền bể ấy có rất nhiều ngọc châu (ngọc trai).
(Xem: 12900)
Tục truyền rằng đời xưa có một loại người gọi là Giao Nhân, ở dưới biển Nam Hải lên buôn bán với con người. Đến cuối năm thì họ phải trở về Thủy Cung.
(Xem: 13985)
Đời Hậu Hán (25-219), ở đất Giang Nam có một chàng hàn sĩ tên Lương Hồng. Nhà nghèo, Lương Hồng ở trong túp lều tranh vách đất. Họ Lương chăm học biết trọng liêm sỉ,...
(Xem: 11462)
Đời Tam Quốc (220-264), Tào Thực tự Tử Kiến là con thứ ba của Tào Tháo, vốn có tài làm thơ hay, được tiếng là đệ nhất thi nhân đời Tần-Hán nhưng có tính phóng túng.
(Xem: 9600)
Tục truyền có chàng thợ săn tên Dã Tràng, một ngày kia nhìn thấy một cặp rắn. Khi con rắn cái lột da thì rắn đực đi tìm đồ ăn mang về cho.
(Xem: 7960)
Một đêm nọ, sư cụ nằm mộng thấy một người đàn bà dắt năm đứa con nhỏ đến trước mặt mình rồi vái lấy vái để, miệng nói: "Xin cứu mạng! Xin cứu mạng!". Sư hỏi người đàn bà...
(Xem: 9357)
Cuối đời nhà Thương (1783-1154 trước D.L.) vua Trụ hoang dâm vô đạo, tàn hại lê dân, người người oán giận. Văn Vương là Cơ Xương, vốn là một chư hầu của nhà Thương, nhân từ đức hạnh...
(Xem: 7723)
"Bi Ca Tán Sở" là một bài hát do Trương Lương đặt ra cho hòa theo tiếng tiêu thổi để làm tan rã quân đội Sở Bá Vương Hạng Võ. Trương Lương tự Tử Phòng, người nước Hán...
(Xem: 19704)
Đời nhà Tống, ở vùng Vũ Khang thuộc Ngô Quận, có 1 người tên là Trầm Khánh Chi, từ nhỏ đã ôm chí lớn, lại có sức mạnh và giỏi về bài binh bố trận.
(Xem: 10391)
Đời nhà Tống, ở vùng Vũ Khang thuộc Ngô Quận, có 1 người tên là Trầm Khánh Chi, từ nhỏ đã ôm chí lớn, lại có sức mạnh và giỏi về bài binh bố trận.
(Xem: 7744)
Lời lẽ và ý tứ hai câu vốn mượn ý và lời ở hai câu liền nhau trong bài "Hàm đan thiếu niên hành" của Cao Tứ đời Đường: Vị tri can đảm hướng thùy thị, Linh nhân khước ức Bình Nguyên Quân.
(Xem: 49027)
Những thay đổi lớn trong cuộc đời, trong xã hội, thường được người Việt ví với "bãi bể nương dâu". Thí dụ: Phút giây bãi bể nương dâu, Cuộc đời là thế biết hầu nài sao. (Lê Ngọc Hân - Ai tư vãn)
(Xem: 16514)
Bát Trân ý nói là những món ăn ngon. Ngày xưa, có 8 món ăn được liệt vào hạng ngon nhất, nấu công phu và rất bổ dưỡng, chỉ có vua chúa mới có dịp ăn, ấy là...
(Xem: 16894)
Bá Nha đời Xuân Thu là một người có tài đàn. Chung Tử Kỳ là người biết thưởng thức âm nhạc. Khi Bá Nha ngồi gảy đàn, bụng nghĩ đến núi, thì Chung Tử Kỳ khen: "Tiếng đàn chót vót như núi cao".
(Xem: 22864)
Trong thời Pháp thuộc, có một bọn người chuyên tổ chức những "trò chơi có thưởng". Trò chơi của bọn họ gồm một cái que và ba chiếc lá. Mỗi lá có đính một chiếc vòng nhỏ ở cuống.
(Xem: 17924)
Nguyên Sở Hạng Võ chiếm đất Quang Trung là đất hưng vương, núi non hiểm trở; còn Hán Lưu Bang vì thế lực yếu nên phải bị đày vào đất Bao Trung.
(Xem: 29486)
Trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc có vua Lương Võ Đế rất tin tưởng Phật pháp, song bà Hoàng hậu tên Hy Thị được vua yêu quý nhất thì tánh lại độc ác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant