Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hồ Than Thở

14 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 5070)
Hồ Than Thở


Hồ nằm về phía đông bắc thành phố Đà Lạt (khoảng 5 cây số). Nơi đây trước kia là một vùng hoang vu, giang sơn của những loài thảo mộc, cầm thú nhưng đã mang một sự tích bi hùng do lòng ái quốc của đôi trai tài gái sắc nước Việt.
Cuối thu năm 1788, quân Thanh lấy cớ ủng hộ ngai vàng vua Lê sang xâm chiếm Việt Nam. Khắp trời Nam, tiếng loa rộn rã thúc giục các chàng trai tráng hiên ngang nhập ngũ dưới bóng cờ Tây Sơn để tiến ra Bắc Hà, quét sạch quân xâm lược.
Lời hịch chiêu mộ đã đến tai Hoàng Tùng, chàng tráng sĩ đất Viễn Hương.
Hoàng vốn dòng dõi danh gia thế phiệt. Ông cha trước kia vì không chịu nổi chế độ hà khắc của quân Minh (đời nhà Hồ) nên đã bồng bế, gồng gánh nhau tìm đường sống tự do. Đến đây, thấy cảnh hoang vu tịch mịch, non xanh, nước biếc, hợp với lòng phóng khoáng, ẩn dật của mình nên chọn làm nơi di dưỡng. Và, đặt tên Viễn Hương để ghi dấu cho một hoàn cảnh mới, cho con cháu sau này nhớ việc hồi hương.
Trước tiếng gọi của núi sông, chàng họ Hoàng cương quyết ra đi. Nhưng trước khi lên đường, Hoàng hẹn gặp người yêu là Mai Nương để cùng đôi câu tiễn biệt. Biết đâu chiến sĩ "một ra đi là không trở về".
Mai Nương là con một vị thổ ty sơn cước. Nàng đẹp và duyên dáng; vì may mắn được Hoàng cứu thoát tai nạn nên người ân trở thành bạn tình, rồi nhận lời gá nghĩa kết duyên. Đôi bạn định xuân sang khi hoa đào khoe sắc thắm thì sẽ xin gia đình cử hành hôn lễ. Nhưng hôm nay ... nơi hẹn của Hoàng được định trong rừng Kỳ Ngộ, bên bờ suối Dịu Hiền.
Gặp nhau, sau khi nói qua cho Mai Nương biết ý định của mình, Hoàng Tùng đau đớn ngồi trầm lặng. Bên nước, bên tình, dù con người khí khái thế mấy cũng không khỏi quyến luyến, bâng khuâng.
Sự trầm lặng của Hoàng làm cho Mai Nương hiểu lầm. Nàng tưởng người yêu hoài nghi lòng trung trinh của nàng. Dịu dàng, nàng hẹn với chàng là hôm sau cũng giờ này, tại đây, nàng sẽ có quà tặng người bạn tình anh dũng trước khi xách kiếm ra đi.
Nhưng hôm sau...
Mai Nương đến trước giờ hẹn. Nàng ngồi bên dòng suối than thở cho duyên kiếp bẽ bàng. Rồi muốn cho người yêu hiểu lòng nàng để dứt mối băn khoăn, nàng thấy chỉ còn cái chết mới để cho chàng yên tâm rằng Mai Nương của chàng bao giờ cũng là vợ của chàng, dù sau này chàng vinh quang trở về hay đã ngã gục giữa chiến trường... Nghĩ vậy, nàng khóc lóc một lúc, gọi tên người yêu mấy lần, đoạn nhắm mắt nhảy xuống dòng nước.
Hoàng Tùng đến đúng giờ hẹn. Nhưng lạ thay, chàng ngơ ngác không tìm ra chỗ cũ. Thì ra, cảm lòng người liệt nữ, chim muông cây cỏ trong rừng đều khóc, nước chảy xuống nơi Mai Nương tuẫn tiết làm thành một giếng sâu, và hai bên đầu suối bít lại. Nơi Mai Nương trầm mình bỗng biến thành một hồ rộng rãi, im lặng bên rừng Kỳ Ngộ.
Sau khi xác nàng nổi lên, dân làng hiểu chuyện lấy làm cảm động, đặt tên hồ này là hồ Than Thở để ghi lại phút cuối cùng của người sơn nữ đã hy sinh cuộc đời cho người yêu yên tâm, làm tròn nghĩa vụ.
Một thi sĩ thương xót cho cảnh ngộ của đôi trai tài gái sắc trung trinh, nên diễn thành một bài trường ca nhẹ nhàng, ai oán:
Nhớ thuở ấy lòng đau khôn xiết,
Ngó non sông dân Việt lầm than...
Cảnh bày: Nước loạn, nhà tan.
Giặc Thanh giày xéo tan hoang cõi bờ.
Rửa hận nước phất cờ vung kiếm.
Đấng anh hùng họ Nguyễn Quang Trung
Ra tay ngang dọc vẫy vùng,
Thề đâu chịu đội trời chung phen này?
Hịch chiêu hiền đó đây rộn rực,
Trống mộ quân tập kích quân thù.
Một phen giành lại cõi bờ,
Một phen dựng lại cơ đồ nhà Nam.
Hoàng Tùng vốn trang anh tuấn,
Quyết ra đi rửa hận non sông.
Tấm thân coi tựa bông hồng,
Mong sao một tiếng anh hùng còn ghi...
Thảm một nỗi biệt ly cắc cớ
Cùng Mai Nương đâu nỡ chia tay?
Ra đi ngàn dặm nước mây,
Biết đâu còn lại có ngày thấy nhau?
Chàng tần ngần lòng đau khôn tả,
Nàng héo hon tấc dạ khôn khuâỵ
Hết nhìn nhau lại cầm tay,
Hỡi khuôn thiêng thấu nỗi này chăng?
Nàng thổn thức hẹn chàng gặp lại,
Suối Dịu Hiền sẽ lại cùng nhau
Chân tơ kẽ tóc gót đầu
Bên rừng Kỳ Ngộ đôi câu tạ từ.
Nào có ngờ xót xa nỗi ấy,
Luống e chàng áy náy khôn nguôi.
Chiến trường biên ải xa xôi,
Chữ trinh thiếp có vẹn mười cho không?
Càng canh cánh bên lòng thắc mắc
Thà nén tâm gạt phắt thường tình.
Cho chàng thỏa chí bình sinh,
Diệt thù thỏa nguyện tâm tình nước non.
Bên dòng nước, Mai Nương lén bước
Từ tinh sương, rảo trước bóng chàng.
Đoái nhìn rừng thẳm mênh mang
Thảm nghe dòng suối thở than não nề...
Rồi một phút như mê như tỉnh,
Gọi Hoàng Tùng lanh lảnh xa đưa.
Gọi rồi đôi mắt lệ mờ,
Tấm thân gieo nặng dưới hồ nước sâu.
Bỗng gió thảm mưa sầu dồn dập,
Khắp núi đồi: Chim khóc, muông than
Hoa rừng tràn lệ chứa chan,
Đất trời như cũng thảm thương não tình.
Chàng thất thểu đinh ninh lần tới
Tìm tình nương chân mỏi, mắt mờ.
Bốn bên vắng lạnh như tờ,
Mênh mông hồ rộng, nước lờ đờ trôi...
Đôi hàng lệ: "Mai Nương ơi hỡi!
Vì đâu mà chín suối xa chơi?
Âm dương cách biệt đôi nơi,
Lệ sầu như nước xanh trôi lững lờ.
Khôn thiêng em hãy đợi chờ.
Mặt hồ Than thở bây giờ là đây
Mai Nương nàng hỡi có hay?"

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5588)
Có lần, bố đi chợ phiên hỏi hai con vợ kế muốn xin quà gì. Một cô xin quần áo đẹp, một cô xin ngọc.
(Xem: 5687)
Xưa có một bác nông dân nghèo. Buổi tối, bác thường ngồi bên bếp lửa, nói với bác gái đang xe chỉ...
(Xem: 5741)
Ngày xưa có một cô bé thùy mị, ai thấy cũng yêu. Yêu nhất vẫn là bà, có gì bà cũng đem cho cháu.
(Xem: 5882)
Một bác thợ xay có ba con trai, một nhà xay lúa, một con lừa và một con mèo. Các con trai xay bột...
(Xem: 5543)
Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chung quanh có một khu rừng lớn.
(Xem: 6179)
Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grêten. Ả thường đi giày gót đỏ khi dạo chơi. Ả ngó đông ngó tây...
(Xem: 5927)
Ngày xưa xảy ra một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống.
(Xem: 5417)
Hanh tính lười biếng. Chú chẳng phải làm gì khác ngoài việc hàng ngày chăn một con dê ở ngoài cánh đồng.
(Xem: 5827)
Ngày xưa có hai vợ chồng một bác tiều phu nghèo khó, sống ở ven một khu rừng lớn. Gia đình có hai con.
(Xem: 5488)
Ngày xưa, có một bà già sống một mình trong một tòa lâu đài cổ giữa một khu rừng bao la, rậm rạp. Đó là một mụ phù thủy cừ khôi.
(Xem: 5940)
Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm nông dân.
(Xem: 7968)
Ngày xưa có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã Lâu. Bà có một cô con gái rất xinh đẹp.
(Xem: 7248)
Âu Dã Tử là một kiếm sư đại tài thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông ta đúc ra những thanh gươm rất tốt, chém sắt như chém bùn. Vua nước Việt là Doãn Thường bèn triệu tới...
(Xem: 6437)
Ninh Thích, người nước Vệ đời Xuân Thu. Người có tài kinh bang tế thế. Lúc còn hàn vi, chưa gặp thời, mình mặc áo cộc, đầu đội nón rách, đi chân không...
(Xem: 14469)
Nguyên Nguyễn Tịch, người đời nhà Tấn, là người rất ưa rượu và đàn. Làm quan rồi cáo bịnh về nhà, kết bạn cùng Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn...
(Xem: 6958)
Thắng trận, Sở Trang vương đời Xuân Thu truyền bày tiệc liên hoan, gọi là "Thái bình yến". Phàm các quan văn võ bất cứ cấp nào đều được tham dự.
(Xem: 12810)
Tây Thi là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt đời Chiến Quốc, có tiếng là "Lạc nhạn" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 12014)
Ngũ Kinh (năm quyển sách) cũng như Tứ Thư là những sách làm nền tảng của Nho giáo. Nguyên trước có sáu kinh nhưng vì sự đốt sách của Tần Thủy Hoàng...
(Xem: 8752)
Tứ ThưNgũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
(Xem: 14325)
Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thong thả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn.
(Xem: 8487)
Lễ tang là lễ đặt ra để tỏ lòng thương trọng và kính thờ người chết. Theo Khổng Tử thì trị thiên hạ "trọng nhứt là ba việc: ăn, tang và tế" (Sở trọng giả, thực tang tế).
(Xem: 6758)
"Ngọc tỉnh liên" là "Hoa sen trong giếng ngọc". Đây là bài phú của Mạc Đĩnh Chi. Ông đỗ Trạng nguyên, khi vào bái yết nhà vua, Trần Anh Tông thấy hình dung ông xấu xí quá...
(Xem: 10480)
Một ông lão ở gần cửa ải Nhạn Môn, nơi giáp giới nước Tàu với Phiên Quốc (Hồ) có con ngựa. Một hôm, con ngựa đi mất. Người quen thuộc đều đến thăm hỏi, chia buồn.
(Xem: 5934)
Đời nhà Đường (618-907), triều Lý Thái Tông (Lý Thế Dân), niên hiệu Trinh Quán năm thứ 13, gần thành Trường An có con sông Kinh, nước trong vắt.
(Xem: 9976)
Đuốc hoa do chữ "hoa chúc" là đèn cầy, nến đốt trong phòng của vợ chồng đêm tân hôn. Tiếng "chúc" thời cổ là "đuốc" tức bó đóm to. Ngày nay gọi là "Hỏa bả".
(Xem: 7093)
Thời xưa, người ta tiễn nhau thường bẻ cành liễu đưa cho người đi. Dương Quan là một cửa ảibiên giới tỉnh Thiểm Tây. Đường thi có bài "Tống Nguyên Nhị sứ An Tây"...
(Xem: 6895)
Hàn Tín người đất Hoài Âm nước Sở đời Tây Hán, thuở hàn vi thường câu cá ở sông Hoài. Có khi cả ngày tìm không được một bữa cơm. Phiếu mẫu thương thình thường cho cơm ăn.
(Xem: 6054)
Tướng nước Yên là nhạc Nghị đem quân đánh nước Tề. Trong vòng 6 tháng mà hạ được 70 thành của Tề. Chỉ còn hai thành thôi là Cử Châu và Tức Mặc đương hấp hối trước lực lượng của Yên.
(Xem: 6134)
Việt Nam, những nghi lễ về cưới gả vốn của Trung Hoa truyền sang từ thời Bắc thuộc (111 trước D.L.) do hai quan thái thú Tích Quang và Nhâm Diên.
(Xem: 6069)
Nước Nam vào thời kỳ Nam Bắc phân tranh (1528-1788). Từ Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê đến nhà Lê trung hưng, nước Nam lại chia làm hai miền: Bắc thuộc họ Trịnh, Nam thuộc họ Nguyễn.
(Xem: 8305)
Bình Nguyên Quân tên Thắng, người nước Triệu đời Chiến Quốc. Được vua Huệ vương cử làm Tướng quốc phong cho đất Bình Nguyên nên gọi là Bình Nguyên Quân.
(Xem: 8759)
Hậu Nghệ có công bắn 9 mặt trời cứu bá tính khỏi chết trong biển lửa nên được nhân dân kính mến, suy tôn làm hoàng đế. Lên làm vua, Nghệ lại cướp giựt của cải của nhân dân.
(Xem: 8167)
Hán đánh triệu. Tướng Hán là Hàn Tín bảo các tướng sĩ của mình: - Hôm nay phá Triệu ắt thành công. Vậy ba quân chỉ ăn cơm sơ qua đỡ lòng...
(Xem: 5811)
Tề là nước tiếp giáp của Lỗ. Trước sự cường thịnh của Lỗ, Tề hầu là Tề Cảnh Công lo sợ bị Lỗ thôn tính. Quan đại phu nước Tề là Lê Di hiến kế...
(Xem: 5760)
Sô Kỵ là một người hiền lại có tài chính trị đời Chiến Quốc, làm Tướng quốc nước Tề dưới triều Tề Uy Vương. Ông hết lòng lo chính sự, thường lưu ý dò xét trong bọn các quan ấp để xem ai hiền, ai không hiền.
(Xem: 5804)
Nguyên nhà Đường từ đời vua Đại Tông (763-765) đến Hy Tông (874-888) thì quốc thế càng suy vi. Phiên trấn hoành bạo ở ngoài, hoạn quan chuyên chính bên trong.
(Xem: 5848)
Đời Xuân Thu, Sái Hầu và Tức Hầu cùng lấy gái nước Trần làm phu nhân. Tức phu nhân là nàng Tức Vĩ nhan sắc tuyệt vời. Nhân khi về thăm cố quốc, ngang qua nước Sái, Sái Hầu mời vào cung thết đãi.
(Xem: 5464)
Trong kho tàng dân ca Việt Nam, trống quân là một loại hát rất bình dânphổ biến tại miền Bắc; và đặc biệt hát trong các dịp hội hè mùa thu...
(Xem: 5931)
Điêu Thuyền là một giai nhân tuyệt sắc đời mạt Hán. Cũng như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Ngọc Hoàn, Điêu Thuyền có tiếng là "bế nguyệt" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 5263)
Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu...
(Xem: 6419)
Đời Tam Quốc, em trai của Ngô chúa Tôn Quyền là Tôn Dực làm Thái thú quận Đan Dương. Dực vốn tính cương cường, nóng nảy lại hay rượu.
(Xem: 6369)
Hội đồng Trạch có cả chục ngàn mẫu ruộng. Theo lời cháu chắt ông kể lại, toàn tỉnh Bạc Liêu bấy giờ có 13 lô ruộng thì hết 11 lô là của ông Trạch.
(Xem: 6192)
Điển tích "Ba đào"- sóng lớn - trong sách Dị Văn lục: Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hoá Chiêu, Lương Tiểu Nga.
(Xem: 7686)
"Tung hoành gia" là một học phái trong Cửu Lưu, tức là chín học phái lớn nhứt hay là chín dòng tư tưởng đời Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung Hoa...
(Xem: 9379)
Đời Tam Quốc, nhà Thục đến hồi suy mạt. Thục chúa là Lưu Thiện, con của Lưu Bị, sau khi Khổng Minh chết, nghe lời gian thần là Hoàng Hạo đắm mê tửu sắc, không nối được chí lớn của cha...
(Xem: 8711)
Chu Công tên Đán, người đời nhà Chu (1135-221 trước D.L.), có tài trị nước. "Thổ bộ" do nguyên câu: "Nhất phạn tam thổ bộ" nghĩa là "Một bữa ăn phải nhả cơm ba lần".
(Xem: 6824)
Tư Mã Thiên tự Tử Thường (145-87 trước D.L.), người huyện Long Môn (nay thuộc huyện Hán Thành, tỉnh Thiểm Tây) đời Hán Vũ đế. Cha của ông là Tư Mã Đàm, một nhà văn học danh tiếng làm chức thái sử tại triều.
(Xem: 5544)
"Mây Tần" nghĩa bóng chỉ nhớ nhà, nhớ quê hương, cha mẹ. Còn những tiếng "Mây trắng", "Mây Hàng", "Mây bạc", "Mây vàng" cũng để nói ý nhớ gia đình, nhớ cha mẹ, quê hương.
(Xem: 6448)
"Tiền Xích Bích phú " là một áng văn chương kiệt tác của Tô Đông Pha (1036-1101), một văn hào đời nhà Tống (950-1275). Đông Pha tên là Thức, tự Tử Chiêm...
(Xem: 8539)
Nước Việt, năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua. Vua Lê Chiêu Tông bị họ Mạc bắt nhốt định giết chết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant