Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trường Hận Ca

21 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 5296)
Trường Hận Ca


Hoàng đế Đường Huyền Tông, họ tên thật là Lý Long Cơ, sau này hay gọi là Đường Minh Hoàng, nhà vua thứ chín đời nhà Đường (618-907). Lúc thiếu thời là một người anh vũ, có tài thao lược. Dưới triều đại của ông, đất nước được thanh bình. Nhưng mấy năm sau cùng, nhà vua đã 50 tuổi, đâm ra si mê Dương Quí Phi tức Dương Ngọc Hoàn, lại tin dùng bọn Dương Quốc Trung (anh họ của Dương Quí Phi), Lý Lâm Phủ, ... nên quốc chính ngày càng suy tệ.
Lúc bấy giờ có tướng An Lộc Sơn, người Hồ, quê ở vùng Nhiệt Hà là người rất thông minh, được nhà vua tin mến. Nhứt là đối với Quí Phi, họ An rất được yêu thương. An xin làm con nuôi của Quí Phi để được phép ra vào cấm uyển mà khỏi ai dị nghị. Nhà vua mù quáng lại vui lòng ưng thuận.
Vì có sự hiềm khích với Tể tướng Dương Quốc Trung, An Lộc Sơn sợ bị ám hại nên bỏ trốn, rồi cử binh từ quân Ngự Dương, tự xưng hoàng đế, đánh thẳng vào kinh đô Trường An. Binh triều đại bại, vua cùng một số quần thần phải bỏ kinh thành chạy vào đất Thục.
Đến Mã Ngôi, tướng sĩ không chịu đi nữa, lại đồng nhau phải giết chết quyền thần Dương Quốc Trung; và bức vua phải đem thắt cổ con người ngọc thì họ mới chịu phò vua. Vì họ cho rằng Quí Phi là mầm sinh đại loạn.
Lương thực hết, quân sĩ khổ mệt, căm tức. Gặp bước đường cùng, nhà vua đành giấu mặt, cắt lòng mà "hy sinh người yêu khuynh quốc".
Sau, loạn dẹp xong, Đường Minh Hoàng trở về Trường An. Đế đô còn đó, mà con người ngọc yêu dấu ngày xưa nay đâu còn nữa. Nỗi nhớ thương dào dạt, dằng dặc đầy lòng.
Mối tình vương giả này, rồi sẽ bị chìm trong lãng quên của thời gian, nếu không có ngòi bút tài hoa tuyệt vời của Bạch Cư Dị tô điểm cho thêm phần lâm ly, chua xót.
Bạch Cư Dị tự Lạc Thiên, người đời nhà Đường, quê ở Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, đậu Tiến sĩ năm 27 tuổi, nhận chúc Hàn lâm học sĩ. Có lúc ông bị biếm làm Tư mã đất Giang Châu. Sau, ông giữ chức Thứ sử ở Tô Châu, Hàng Châu. Về già, được thăng Hình bộ thượng thư.
Chứng kiến được cảnh thảm khốc của một bi tình si lụy của Đường Minh Hoàng, họ Bạch để lòng cảm xúc bằng bài "Trường hận ca" (Hận tình muôn thuở).
Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc,
Ngữ vũ đa niên cầu bất đắc.
Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành,
Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức.
Thiên sinh lệ chất nan tự khí:
Nhất triêu tuyển tại quân vương trắc.
Hồi mâu nhất tiếu, bách mị sinh,
Lục cung phấn đại vô nhan sắc.
Xuân hàn tứ dục Hoa thanh trì,
Ôn tuyền thủy hoạt tẩy ngưng chi.
Thị nhi phù khởi kiều vô lực,
Thỉ thị tân thừa ân trạch thì,
Vân bấn hoa nhan kim bộ diêu.
Phù dung trướng noãn độ xuân tiêu.
Xuân tiêu khổ đoản, nhật cao khởi.
Tùng thử quân vương bất tảo triều.
Thừa hoan thị yến vô nhàn hạ,
Xuân tùng xuân du, dạ chuyên dạ.
Hậu cung giai lệ tam thiên nhân,
Tam thiên sủng ái tại nhất thân.
Kim ốc trang thành kiều thị dạ,
Ngọc lâu yến bãi túy hòa xuân.
Tỉ muội đệ huynh giai liệt thổ,
Khả liên quang thái sinh môn hộ
Toại linh thiên hạ phụ mẫu tâm
Bất trọng sinh nam trọng sinh nữ.
Ly cung cao xứ nhập thanh vân,
Tiên nhạc phong phiêu xứ xứ văn,
Hoãn ca mạn vũ ngưng ti trúc,
Tận nhật quân vương khan bất túc...
Ngư Dương bề cổ động địa lai,
Kinh phá Nghê Thường vũ y khúc.
Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh
Thiên thặng vạn kỵ Tây Nam hành.
Thúy hoa diêu diêu hành phục chỉ,
Tây xuất đô môn bách dư lý.
Lục quân bất phát, vô nại hà,
Uyển chuyển nga my mã tiền tử,
Hoa điền ủy địa vô nhân thâu,
Thúy kiều kim tước ngọc tao đầu.
Quân vương yểm diện cứu bất đắc,
Hồi khan huyết lụy tương hòa lưu.
Hoàng ai tán mạn phong tiêu tác,
Vân san oanh vu đăng Kiếm các.
Nga mi sơn hạ thiểu nhân hành,
Tinh kỳ vô quan nhật sắc bạc.
Thục giang thủy bích, Thục sơn thanh,
Thánh chúa triêu triêu mộ mộ tình.
Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc,
Dạ vũ văn linh trường đoạn thanh.
Thiên tuyền địa chuyển hồi long ngự,
Đáo thử trù trừ bất năng khứ.
Mã ngôi pha hạ nê thổ trung,
Bất kiến ngọc nhan không tử xứ,
Quân thần tương cố tận triêm y,
Đồng vọng đô môn tín mã quy.
Quy lai trì uyển giai y cựu:
Thái dịch phù dung Vị ương liễu.
Phù dung như diện liễu như my.
Đối thử như hà bất lụy thùy!
Xuân phong đào lý hoa khai nhật,
Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì.
Tây cung nam nội đa thu thảo,
Lạc diệp mãn giai hồng bất tảo.
Lê viên đệ tử bạch phát tân,
Tiêu phòng a giám thanh nga lão.
Tịch diện huỳnh phi tứ thiểu nhiên
Cô đăng khiêu tận, vị thành miên.
Trì trì chung cổ sơ trường dạ
Cảnh cảnh tinh hà dục dục thự thiên.
Uyên ương ngõa lãnh sương hoa trọng,
Phỉ thúy khâm hàn thùy dữ cộng
Du du sinh tử biệt kinh niên
Hồn phách bất tằng lai nhập mộng.
Lâm cùng đạo sĩ Hồng đô khách,
Năng dĩ tinh thành trí hồn phách.
Vị cảm quân vương tuyển chuyển tư,
Toại giao phương sĩ ân cần mịch
Bài vân ngự khí bôn như điện,
Thăng thiên nhập địa cầu chi biến.
Thượng cùng bích lạc hạ hoàng tuyền,
Lưỡng xứ mang mang giai bất kiến.
Hốt đăng hải thượng hữu tiên san,
San tại hư vô phiếu diễu gian.
Lâu các linh lung ngũ vân khởi,
Kỳ trung sước ước đa tiên tử.
Trung hữu nhất nhân tự Thái Chân,
Tuyết phu hoa mạo sâm si thị.
Kim khuyết tây tương khấu ngọc quynh,
Chuyển giao Tiểu Ngọc báo Song Thành.
Văn đạo Hán gia thiên tử sứ.
Cửu hoa trướng lý mộng hồn kinh.
Lãm y thôi chẩm khởi bồi hồi,
Châu bạc ngân bình dĩ lỹ khai.
Vân kế bán thiên tân thụy giác,
Hoa quan bất chính hạ đường lai.
Phong xuy tiên duệ phiêu phiêu cử
Do tự Nghê Thường vũ y vũ,
Ngọc dung tịch mạc lệ lan can.
Lê hoa nhất chi xuân đái vũ.
Hàm tình ngưng thế tạ quân vương
Nhất biệt âm dung lưỡng diễu mang.
Chiêu dương điện lý ân ái tuyệt
Bồng lai cung trung nhật nguyệt trường.
Hồi đầu hạ vọng nhân hoàn xứ,
Bất kiến Trường An kiến trần vụ
Duy tương cựu vật biểu thâm tình
Điền hợp kim thoa ký tương khứ.
Điền lưu nhất cổ hợp nhất phiến
Thoa bích hoàng kim hợp phân điện.
Đãn giao tâm tự kim điền kiên,
Thiên thượng nhân gian hội tương kiến.
Lâm biệt ân cần trọng ký từ,
Từ trung hữu thệ lưỡng tâm tri,
Thất nguyệt thất nhật Trường sinh điện,
Dạ bán vô nhân tư ngữ thì,
Tại thiên nguyện tác tị dực điểu,
Tại địa nguyện vi tiên lý chi.
Thiên trường địa cửu hữu thời tận,
Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ.
Tác phẩm này đã có nhiều người dịch ra quốc văn, có bản bằng Pháp văn của Georges Soulié de Morant. Dưới đây là bản dịch của Yã Hạc và Trịnh Nguyên:
Vua Hán ước mơ người quốc sắc,
Bao năm tìm kiếm luống công toi.
Họ Dương có gái hoa đương nở,
Khóa kín buồng xuân, hận lẻ loi.
Sắc đẹp trời sinh khôn bỏ phí,
Ngai vàng một sớm được ngồi chung.
Một cười khêu gợi trăm mê luyến,
Xóa mất hồng nhan ở sáu cung.
Xuân lạnh, Hoa thanh hồ sẵn đó,
Suối tuôn dòng ấm tắm hoa khôi,
Vua ban ân trạch, con hầu nịnh
Sáng dậy phò nâng ẻo lả ngồi.
Ngày dạo sen vàng bay tóc mượt,
Đêm xuân trướng ấm ủ hoa đào.
Mặt trời lên vội, đêm xuân ngắn,
Từ đấy nhà vua nhãng thị trào.
Yến ẩm vui vầy thôi chẳng ngớt;
Đêm đêm xuân tứ lại xuân tình.
Ba ngàn cung nữ, ba ngàn mối,
Sủng ái từ đây thanh hầu thánh chúa,
Anh em nhuần gội ơn mưa móc,
Nhà cửa hàn vi rạng rỡ lây.
Thiên hạ đem lòng mơ phú quý,
Khinh trai trọng gái kể từ đây.
Ly Cung cao tít lồng mây biếc,
Tiên nhạc mê hồn vẳng bốn phương.
Sớm tối ca êm hòa múa dịu
Não nùng tơ trúc đắm quân vương.
Ầm ầm chiêng trống Ngư Dương dấy,
Khúc hát Nghê Thường hoảng vỡ tan.
Thành khuyết xôn xao mù khói bụi,
Xe rồng rong ruổi hướng tây nam.
Khi đi khi nghỉ, cờ phơ phất.
Trăm dặm đường Tây bước gập ghềnh.
Quân sĩ căm hờn, không chịu tiến:
Mày ngài trước ngựa phải hy sinh!
Hoa tai bỏ đất, không người nhặt,
Trăm ngọc thoa vàng lả tả rơi.
Đứt ruột quân vương đành giấu mặt.
Ngoảnh nhìn máu chảy lệ ràn trôi.
Bụi vàng tản mác đìu hiu gió,
Kiếm Các cheo leo sạn đạo dài.
Chân núi Nga Mi buồn bã vắng;
tinh kỳ nhợt thếch, mặt trời phai.
Nước non Ba Thục xanh xanh biếc,
Sớm tối nhà vua trĩu nhớ nhung.
Quạnh quẽ hành cung, trăng gợi thảm,
Đêm mưa chuông vắng tiếng đau lòng.
Trời xoay đất chuyển quày long ngự,
Chốn cũ ngừng thăm dạ ngẩn ngơ.
Mặt ngọc giờ đâu? Trơ tử địa,
Mã ngôi ảm đảm đất bùn nhơ,
Vua tôi nhỏ lệ đầm bâu áo,
Kinh khuyết vời trông tế ngựa về,
Về tới, vườn ao như thuở trước.
Vị ương lá liễu giống mày ai,
Phù dung Thái dịch trông như mặt.
Cảnh cũ tình xưa giọt lệ rơi!
Đào lý nở hoa xuân gió thoảng,
Mưa thu đổ rụng lá ngô đồng.
Tây cung Nam nội đầy thu thảo,
Phủ kín thềm hoang lá úa hồng.
Con hát Lê viên sầu tóc bạc,
Tiêu phòng thái giam hận răng long.
Tối nhìn đom đóm bay le lói.
Khêu cạn đèn khuya giấc chửa an.
Dằng dặc năm canh rền trống điểm,
Sông Ngân lấp lánh báo đêm tàn.
Mái lầu thánh thót rơi sương lạnh,
Đắp chiếc mền đơn, nhớ độ nào...
Sống thác bao năm đằng đẵng biệt,
Hương hồn sao chẳng hiển chiêm bao!
Lâm Cùng may có tay phương sĩ,
Một phép chiêu hồn dậy tiếng tăm,
Thương cảm quân vương trằn trọc nhớ,
Mới sai đạo sĩ cố truy tầm.
Cỡi mây lướt gió nhanh như chớp,
Lên tận trời cao xuống đất sâu.
Bích Lạ, Hoàng Thuyền đi khắp chỗ,
Mênh mông nào thấy bóng ai đâu!
Chợt nghe ngoài biển nơi không ảo,
Lơ lửng mơ hồ có núi tiên.
Cung điện chập chờn mây ngũ sắc.
Tiên nga tha thướt dạo trong đền,
Mặt hoa da tuyết riêng nàng nọ,
Phảng phất hình dung, tợ Thái Chân.
Gõ cửa hiên tây vàng rực rỡ,
Báo tin Tiểu Ngọc, nhắn Song Thành.
Nghe tin sứ giả đời vua Hán
Trướng gấm hồn mơ bỗng giựt mình.
Dã dượi ngồi lên, thu vạt áo,
Rèm châu bình lạc, mở lần ra.
Tóc mây lệch nửa, nghiêng nghiêng mũ
Bước xuống thềm loan, dáng thẫn thờ.
Tay áo gió lay bay phất phới,
Tưởng như đang múa Nghê Thường xưa.
Âm thầm mặt ngọc lưa thưa lệ,
In một cành lê điểm điểm mưa.
Ngầm sầu ngưng lệ, tạ quân vương,
Từ thuở âm dương biệt mỗi phương.
Trong điện Chiêu Dương, ân ái tuyệt,
Bồng lai tiên cảnh, tháng năm trường.
Ngoảnh đầu trông xuống nơi trần thế,
Chẳng thấy Trường An, thấy bụi mù.
Gởi tỏ tình tâm trong vật cũ,
Thoa vàng hộp đá kính dâng vua.
Hộp đá thoa vàng đem bẻ nửa,
Nửa thì giữ lại, nửa đưa trao,
Lòng sao chỉ nguyện như vàng đá,
Hạ giới thiên đình sẽ gặp nhau.
Lúc sắp lui về còn nhắn nhủ,
Nhắc lời thệ ước giữa đôi bên.
Năm xưa, trùng thất, Trường Sinh điện.
Vắng vẻ đêm khuya thủ thỉ truyền:
"Trên trời nguyện hóa chim liền cánh,
Dưới đất làm cây nhánh dính liền".
Trời đất lâu bền rồi sẽ tận,
Hận này muôn thuở vẫn miên miên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6215)
Năm Nhâm thân (1572), nhà Mạc sai tướng là quận công Lập Bạo đem quân đánh Thuận Quảng là đất chúa Nguyễn ở miền Nam. Lập Bạo huy động cả thảy lục quân tiến vào.
(Xem: 6136)
Gần bên giếng của chùa bỗng mọc lên một cây hoa lạ. Cây cao một trượng, trên ngọn có một đóa hoa ngũ sắc cực kỳ tươi đẹp.
(Xem: 6279)
Tỉnh Tuy Viễn ở Trung Hoa, bắc giáp Mông Cổ. Thị trấn tỉnh hội là Quy Tuy. Cách 10 cây số về phía nam có mộ của Vương Chiêu Quân, người cung phi tuyệt đẹp của Hán Nguyên đế...
(Xem: 12901)
Đời Xuân Thu, Quản Di Ngô tự là Trọng, vốn người có tài kinh bang tế thế. Ngày còn hàn vi, chưa gặp thời thường cùng bạn là Bảo Thúc Nha đi buôn chung.
(Xem: 17150)
Hán, Sở giao binh tại Cai Hạ. Đây là trận cuối cùng quyết định thắng bại của đôi bên. Tướng soái của Hán vương Lưu Bang là Hàn Tín đem trăm vạn quân siết chặt vòng vây...
(Xem: 7459)
Đọc sử Tàu, ai cũng biết qua vua Đường Minh Hoàng và Dương Quí Phi nhà vua tuy già nhưng vẫn đa tình và rất mực phong lưu.
(Xem: 7499)
"Không vào hang hùm sao bắt được cọp con", nguyên Hán văn: "Bất nhập hổ huyệt an đắc hổ tử". Đó là lời nói bất hủ của tướng Ban Siêu đời nhà Hán ở Trung Hoa.
(Xem: 7155)
Về thời thượng cổ, người ta chưa có cơ khí gì để đo lường thời gian mà chỉ có một ít dụng cụ thô sơ. Dụng cụ đó là cái đồng hồ thái dương...
(Xem: 7571)
Can Tương và Mạc Gia là tên hai vợ chồng người rèn kiếm. Mà cũng là tên hai thanh kiếm báu ngày xưa ở bên Tàu.
(Xem: 9045)
Ngày xưa, lầu xanh là nơi các nhà quyền quý, những thiếu nữ khuê các ở. "Đại lộ khi thanh lâu" nghĩa là đường lớn dựng lầu xanh.
(Xem: 7078)
Năm 1279, Nguyên Thế TổHốt Tất Liệt - vua Mông Cổ - đem quân đánh nhà Nam Tống ở Trung Quốc. Nam Tống đại bại bị diệt. Nhà Nguyên làm chủ toàn bộ Trung Quốc.
(Xem: 8103)
"Thao lược" cũng gọi là "Lục thao, Tam lược". Đây là hai bộ sách thuộc về binh pháp cổ Trung Hoa.
(Xem: 5819)
Đời Tam quốc, nhà Ngụy và Thục giao tranh. Thừa tướng nhà Thục là Gia Cát Lượng tự Khổng Minh cầm quân phạt Ngụy ...
(Xem: 5953)
Ngô Khởi, người nước Vệ đời Chiến Quốc (481-221 trước D.L.). Lúc còn bé, Khởi chuyên học nghề đánh gươm, luyện võ. Bà mẹ rầy la.
(Xem: 4712)
"Thấy nhàn" là thấy chim nhạn. Theo nguyên tác bằng Hán văn của Đặng Trần Côn là: "Kiến nhạn uổng nhiên tư tái bạch". "Thấy nhàn" có nghĩa là thư tín, do điển Tô Võ.
(Xem: 6123)
Trương Tịch tự Văn Xương, người đất Tô Châu, thi gia thời Trung Đường (766-827), đậu Tiến sĩ dưới triều vua Đức Tông. Năm 799, được Hàn Dũ tiến cử làm Quốc tử bác sĩ...
(Xem: 5370)
Cây đàn bằng gỗ, thùng đàn hình thang, cần dài. Đầu cần có trạm hình đầu con ngựa. Cung đàn làm bằng đuôi ngựa.
(Xem: 6355)
Nàng Ban tức là Ban Chiêu, tự Huệ Cơ, con gái của Ban Bưu, em gái của Ban Cố đời Đông Hán (25-196). Sinh trong gia đình Nho họ, cha anh đều học thức tài giỏi.
(Xem: 5328)
Ở núi Xuân Đài, xã Thọ Vực, huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hóa) có động Hồ công. Phía trước động ngoảnh về sông Mã.
(Xem: 6201)
Đời Xuân Thu (551-479 trước D.L.), tướng Dưỡng Do Cơ và Phan Đảng đều là người nước Sở, có tài thiện xạ. Một hôm, cả hai thử tài nhau chơi.
(Xem: 7379)
Thái Diễm cũng gọi là Thái Văn Cơ, một nữ sĩ tài hoa đời Tam Quốc (220-264). Cha nàng là Thái Ung, có tài thẩm âm vào bực nhứt cổ kim.
(Xem: 5002)
Bá Nha, người đời nhà Tấn, làm quan Thượng Đại Phu. Một hôm đi sứ nước Sở trở về, đến sông Hán Dương, nhằm đêm Trung Thu trăng thanh gió mát...
(Xem: 5197)
Năm hạng tang phục (Ngũ phục) là gì? - Theo "Thọ mai gia lễ", có năm hạng tang phục tuỳ theo quan hệ huyết thống và nghĩa tình phân biệt thân sơ:
(Xem: 5673)
Bên Trung Hoa, tại vùng Trúc Giang có một chàng lái buôn tên Quan Diệp Nhược yêu một nàng thôn nữ tên Tần Thúy Hải.
(Xem: 6917)
Không ai biết trống cơm ra đời từ lúc nào. Chỉ biết đại khái là các cụ ta thường dùng nó trong những dịp tế lễ thần thánh...
(Xem: 5594)
Chóp núi Vọng Phu là một khối đá hoa cương khổng lồ, đứng thẳng lên trời; bên cạnh lại có một khối đá khác nhỏ hơn.
(Xem: 5039)
Đời nhà Đường (618-907), Tể Tướng Trương Gia Trinh có năm người con gái. Cả năm đều xấp xỉ ngang nhau. Mỗi người một vẻ...
(Xem: 6623)
Theo truyền thuyết (sách "Dị văn lục") thì khúc vũ này do Đường Minh Hoàng du Nguyệt điện về chế ra cho những người cung nữ múa hát.
(Xem: 5081)
Hồ nằm về phía đông bắc thành phố Đà Lạt (khoảng 5 cây số). Nơi đây trước kia là một vùng hoang vu, giang sơn của những loài thảo mộc...
(Xem: 7961)
Hoàng đế nước Kim rất yêu quý hai nàng cung phi là Lệ Cẩm tây cung và Ngọc Sương ái phi. Hoàng hậu lấy làm ghen tức...
(Xem: 5635)
"Hậu Đình Hoa" nghĩa là "Hoa ở sân sau". Đây là một tập thơ chọn lọc rồi phổ thành âm điệu cho các cung nữ, phi tần hát...
(Xem: 5371)
Thúy Kiều, con của viên ngoại họ Vương, người ở Bắc Kinh. Nàng yêu kiều diễm lệ, có một thái độ phong lưu, tính thích hào hoa, thích âm luật...
(Xem: 11745)
Tương truyền đời nhà Tấn (265-419), có người chài cá ở huyện Vũ Lăng, một hôm chèo thuyền đi ngược ven theo bờ suối.
(Xem: 9977)
Rẽ cho thưa hết một lời đã nao! Vẻ chi một đóa yêu đào! Vườn hồng khi dám ngăn rào chim xanh.
(Xem: 9211)
Lam Kiều là một cái cầu bắc trên sông Lam, thuộc tỉnh Thiểm Tây bên Tàu, tương truyền là nơi tiên ở.
(Xem: 8267)
Ngày xưa có một vị lái buôn tên là Kappata. Ông có một con lừa chuyên chở hàng gốm, mỗi ngày ông thường đi một cuộc hành trình dài bảy lý...
(Xem: 7401)
Triều vua nào cũng vậy, nhiều giai nhân tuyệt sắc trong nước được tuyển vào cung để làm cung nữ. Họ là những giai nhân bạc mạng...
(Xem: 5616)
Núi Na ở thôn Quần Ngọc, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Trên đỉnh núi có chùa xưa, tục danh là Tiên am. Phía tả có động thâm u.
(Xem: 5831)
Tư Mã Tương Như tự Tràng Khanh, người đất Thục đời Tiền Hán (206 trước D.L.-8 sau D.L.), rất đa tài, văn hay, đàn giỏi.
(Xem: 5973)
Tô Đông Pha là một thi hào danh tiếng đời nhà Tống (950-1275). Ông có một cô hầu tuyệt đẹp tên Xuân Nương.
(Xem: 4713)
"Giảo thố tam quật" nghĩa là "con thỏ khôn có ba ngách hang". Ý nói: thỏ có ba ngách hang để tránh cho khỏi bị chết...
(Xem: 6878)
Đời Hậu Chu, thời Ngũ Quý (905-955), ở tỉnh Hồ Nam vùng sông Tiêu Tương có nàng Ý Nương, con gái của Lương công. Nàng có sắc đẹp lại hay chữ.
(Xem: 5336)
Nàng họ Ban, không biết tên, vốn là một cung phi của vua Thành Đế nhà Hán (32-8 trước D.L.). Nàng làm nữ quan, chức Tiệp Dư nên thường gọi nàng Ban Tiệp Dư.
(Xem: 5627)
Ở xã Trị Nội, huyện Nga Sơn, phía hữu núi Thần Phù có "Bích Đào động" cũng gọi là "Từ Thức động", trong trải rộng rãi mà lại thanh hư, cây cối xinh tốt.
(Xem: 21635)
Tư Mã Tương Như, tự Tràng Khanh, người ở Thành Đô đời nhà Hán. Người rất đa tài, văn hay, đàn giỏi. Khi lìa quê lên Tràng An để lập công danh...
(Xem: 4906)
Nhà Tần (306-209 trước D.L.), đời vua Tần Thủy Hoàng (221-209 trước D.L.) có người con gái họ Hứa tên Mạnh Khương. Chồng của nàng họ Phạm tên Thực, người ở miền Quan Trung nước Sở.
(Xem: 5344)
Đời nhà Tấn (265-419) ở đất Thần Châu có nàng Tô Huệ tự Nhược Lan. Nàng, dung nhan kiều mị, tài đức song toàn, văn chương xuất chúng.
(Xem: 9954)
Tào Tháo đời Tam Quốc (220-264) có xây một cái đài bên sông Chương Hà tỉnh Hà Nam, đặt tên là Đồng Tước. Đài này cực kỳ tráng lệ.
(Xem: 5235)
Đời vua Hán cảnh Đế có người bán dầu tên Bùi Độ nghèo khổ lang thang, được thầy tướng số cho biết sẽ chết đói vì coi tướng mặt có hai đường chỉ...
(Xem: 5370)
Triều vua Lý Thái Tông (1028-1054) nước Đại Việt, Xạ Đẩu không theo lệ cống, thất lễ phiên thần, vua tự đem binh Nam chinh. Xạ Đẩu bày trận ở sông Bồ Chính...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant