Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mật lệnh trong nhân bánh Trung Thu

27 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 7073)
Mật lệnh trong nhân bánh Trung Thu


Năm 1279, Nguyên Thế TổHốt Tất Liệt - vua Mông Cổ - đem quân đánh nhà Nam Tống ở Trung Quốc. Nam Tống đại bại bị diệt. Nhà Nguyên làm chủ toàn bộ Trung Quốc. Lần thứ nhứt, Trung Quốc bị ngoại tộc thống trị.
Đối với Trung Quốc, nhà Nguyên vẫn giữ quan niệm kỳ thị chủng tộc. Trong nước bấy giờ chia làm bốn đẳng cấp: người Mông Cổ, người Sắc Mục (chỉ người Tây Vực và Châu Âu), người Hán (chỉ người nước Liêu và nước Kim còn sót lại). Giữa người Mông Cổ và người Hán có một chế độ chênh lệch. Những chức vụ quan trọng về chính trị và quân sự đều tập trung vào tay người Mông Cổ. Người Hán và người Nam chỉ được giữ những địa vị phụ thuộc.
Hạng nho sĩ được người Trung Quốc quý trọng thì bị người Mông Cổ khinh miệt. Họ thường có câu nói ví: "Thứ tám là đĩ, thứ chín là nho, thứ mười là ăn mày".
Muốn đề phòng nội loạn, nhà Nguyên cấm chỉ dân Giang Nam cầm binh khí. Trong vòng 10 nhà thì đặt giáp trưởng để giữ người Nam. Các vương công và quan lại Mông Cổ tự do cướp ruộng đất của nông dân để làm mục trường và nô tỳ.
Sự bức bách khắc nghiệt đó chính là một yếu tố quan trọng, tạo thành một động lực cho phong trào nông dân bạo độc và dân tộc tranh đấu đòi giải phóng.
Năm 1337, đời Thuận Đế nhà Nguyên, Châu Quang Khanh nổi dậy ở Quảng Châu, Bạng Hồ ở Tín Dương Châu. Tiếp theo đó nông dân quật khởi ở nhiều nơi khắp miền nam và miền bắc.
Năm 1351, cha con Hàn Sơn Đồng lập Bạch Liên Hội, lợi dụng tôn giáo để tổ hợp nông dân. Đây là một giáo hội bí mật, tuyên truyền rằng: "Hoa sen trắng (Bạch liên) nở có Phật Di Lặc giáng thế", đồng thời viết kinh sách và phù chú để truyền bá trong dân gian. Phong trào này gây nhiều ảnh hưởngHà Nam và Giang Hoài.
Hàn Sơn Đồng bị bắt. Con là Hàn Lâm Nhi nối lấy nghiệp cha và xưng đế. Đồng thời, Trương Sĩ Thành chiếm cứ đất Ngô; Trần Hữu Lương chiếm cứ Giang Châu; Châu Nguyên Chương chiếm cứ Tập Khánh (thành Nam Kinh bây giờ).
Châu Nguyên Chương xuất thân là một thầy tu. Bên cạnh lại có vị quân sư là Lưu Bá Ôn vốn người đa mưu túc trí. Năm 1367, Châu Nguyên Chương xưng vương tuyên bố tranh đấu giải phóng dân tộc, thành lập chánh quyền của người Trung Hoa, chiếm cứ vùng Giang Hoài, thống nhất phương Nam. Năm 1368, Châu Nguyên Chương sai tướng Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đem binh lên miền bắc đánh vua Nguyên Thuận Đế.
Mùa thu tháng 8 năm 1368.
Tướng Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân điều động quân đội mở cuộc bắc tiến với mật kế của quân sư Lưu Bá Ôn.
Nhân dân Bắc kinh đang tổ chức cúng rằm Trung thu. Họ chuẩn bị bánh, bưởi, khoai môn... Nhưng khi cắt bánh ra, dân chúng trong thành rất đỗi ngạc nhiên thấy trong nhưn bánh có một mảnh giấy vàng con đề một dòng chữ nhỏ son đỏ vắn tắt: "Khuya ngày rằm Phật Di Lặc giáng thế, cầm đèn lồng đi rước".
Cho là thần linh báo trước, mọi người mừng rỡ. Ai ai cũng vâng lịnh thần linh. Vì họ tin rằng: khi Phật Di Lặc giáng thế là lúc họ sẽ được thoát khỏi cảnh lầm than mà bước đến đài hạnh phúc.
Trước kia, khi đặt nền thống trị Trung Hoa, người Mông Cổ muốn bắt người Hán theo văn hóa du mục của họ. Nhưng văn hóa hòa nhã tinh tế của người Hán lần lần cảm hóa được tính chất của người Mông Cổ, có ảnh hưởng sâu xa tinh thần người Mông Cổ, thành ra dân tộc bị chinh phục trở lại đồng hóa kẻ thống trị mình. Do đó vua Thuận Đế chẳng những bằng lòng cuộc tổ chức lễ nghi của dân Trung Hoa mà còn sẵn sàng bày những cuộc vui chơi trong đêm rằm Trung Thu để thưởng nguyệt nữa.
Nhà vua cùng quần thần mặc say sưa chè chén.
Dân chúng trong thành mặc tự do đi đi lại lại. Ai ai cũng cầm trong tay một chiếc đèn lồng. Cả bầu trời sáng rực. Thật là một hội hoa đăng tưng bừng, náo nhiệt.
Cửa thành mở toát
Người đi lại tấp nập.
Trên vườn Thượng Uyển, Thuận Đế tay nâng cốc rượu say sưa ngắm chị Hằng, bên cạnh bao vây một hàng vũ nữ, nàng nào cũng lộng lẫy xinh tươi.
Dưới đường, dân chúng cầm lồng đen cũng say sưa chờ đợi để đón rước Phật Di Lặc giáng thế.
Canh hai, canh ba ... không thấy gì. Nhưng ...
Bỗng một tiếng pháo lịnh nổ.
Một số người cầm đèn bấy giờ buông đen, tay đổi cầm khí giới.
Thì ra, một số quân lính của Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân giả làm dân chúng, cầm đen trà trộn đột nhập vào thành để làm nội ứng.
Quân lính bên ngoài lại xông vào hợp với quân trong thành tấn công dữ dội.
Tiếng hò hét vang dậy.
Chúa tôi nhà Nguyên giữa lúc say sưa chè chén bên cạnh bọn vũ nữ quay cuồng với khúc Nghê Thường vũ y, bị đánh thình lình, không phương chống cự nên cuống cuồng bỏ chạy.
Quân của Từ Đạt chiếm lấy thành.
Vua Thuận Đế nhà Nguyên bị đuổi chạy về Mông Cổ.
Châu Nguyên Chương thâu lại toàn bộ Trung Quốc, lên ngôi hoàng đế, định đô tại Tập Khánh (Nam kinh), đổi quốc hiệu là Minh. Ấy là vua Minh Thái Tổ.
Nước Trung Hoa vào tay người Mông Cổ trong 89 năm (1279-1386), trải qua mười đời vua, nay lại trở về người Hán.
Xiềng xích đô hộ tan vỡ. Nhân dân hoan lạc âu ca.
Một "nhân bánh" ... lịch sử.

blank 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5597)
Có lần, bố đi chợ phiên hỏi hai con vợ kế muốn xin quà gì. Một cô xin quần áo đẹp, một cô xin ngọc.
(Xem: 5696)
Xưa có một bác nông dân nghèo. Buổi tối, bác thường ngồi bên bếp lửa, nói với bác gái đang xe chỉ...
(Xem: 5751)
Ngày xưa có một cô bé thùy mị, ai thấy cũng yêu. Yêu nhất vẫn là bà, có gì bà cũng đem cho cháu.
(Xem: 5883)
Một bác thợ xay có ba con trai, một nhà xay lúa, một con lừa và một con mèo. Các con trai xay bột...
(Xem: 5548)
Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chung quanh có một khu rừng lớn.
(Xem: 6181)
Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grêten. Ả thường đi giày gót đỏ khi dạo chơi. Ả ngó đông ngó tây...
(Xem: 5931)
Ngày xưa xảy ra một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống.
(Xem: 5422)
Hanh tính lười biếng. Chú chẳng phải làm gì khác ngoài việc hàng ngày chăn một con dê ở ngoài cánh đồng.
(Xem: 5830)
Ngày xưa có hai vợ chồng một bác tiều phu nghèo khó, sống ở ven một khu rừng lớn. Gia đình có hai con.
(Xem: 5495)
Ngày xưa, có một bà già sống một mình trong một tòa lâu đài cổ giữa một khu rừng bao la, rậm rạp. Đó là một mụ phù thủy cừ khôi.
(Xem: 5942)
Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm nông dân.
(Xem: 7977)
Ngày xưa có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã Lâu. Bà có một cô con gái rất xinh đẹp.
(Xem: 7248)
Âu Dã Tử là một kiếm sư đại tài thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông ta đúc ra những thanh gươm rất tốt, chém sắt như chém bùn. Vua nước Việt là Doãn Thường bèn triệu tới...
(Xem: 6443)
Ninh Thích, người nước Vệ đời Xuân Thu. Người có tài kinh bang tế thế. Lúc còn hàn vi, chưa gặp thời, mình mặc áo cộc, đầu đội nón rách, đi chân không...
(Xem: 14474)
Nguyên Nguyễn Tịch, người đời nhà Tấn, là người rất ưa rượu và đàn. Làm quan rồi cáo bịnh về nhà, kết bạn cùng Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn...
(Xem: 6967)
Thắng trận, Sở Trang vương đời Xuân Thu truyền bày tiệc liên hoan, gọi là "Thái bình yến". Phàm các quan văn võ bất cứ cấp nào đều được tham dự.
(Xem: 12824)
Tây Thi là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt đời Chiến Quốc, có tiếng là "Lạc nhạn" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 12023)
Ngũ Kinh (năm quyển sách) cũng như Tứ Thư là những sách làm nền tảng của Nho giáo. Nguyên trước có sáu kinh nhưng vì sự đốt sách của Tần Thủy Hoàng...
(Xem: 8761)
Tứ ThưNgũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
(Xem: 14335)
Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thong thả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn.
(Xem: 8503)
Lễ tang là lễ đặt ra để tỏ lòng thương trọng và kính thờ người chết. Theo Khổng Tử thì trị thiên hạ "trọng nhứt là ba việc: ăn, tang và tế" (Sở trọng giả, thực tang tế).
(Xem: 6766)
"Ngọc tỉnh liên" là "Hoa sen trong giếng ngọc". Đây là bài phú của Mạc Đĩnh Chi. Ông đỗ Trạng nguyên, khi vào bái yết nhà vua, Trần Anh Tông thấy hình dung ông xấu xí quá...
(Xem: 10490)
Một ông lão ở gần cửa ải Nhạn Môn, nơi giáp giới nước Tàu với Phiên Quốc (Hồ) có con ngựa. Một hôm, con ngựa đi mất. Người quen thuộc đều đến thăm hỏi, chia buồn.
(Xem: 5940)
Đời nhà Đường (618-907), triều Lý Thái Tông (Lý Thế Dân), niên hiệu Trinh Quán năm thứ 13, gần thành Trường An có con sông Kinh, nước trong vắt.
(Xem: 9995)
Đuốc hoa do chữ "hoa chúc" là đèn cầy, nến đốt trong phòng của vợ chồng đêm tân hôn. Tiếng "chúc" thời cổ là "đuốc" tức bó đóm to. Ngày nay gọi là "Hỏa bả".
(Xem: 7101)
Thời xưa, người ta tiễn nhau thường bẻ cành liễu đưa cho người đi. Dương Quan là một cửa ảibiên giới tỉnh Thiểm Tây. Đường thi có bài "Tống Nguyên Nhị sứ An Tây"...
(Xem: 6901)
Hàn Tín người đất Hoài Âm nước Sở đời Tây Hán, thuở hàn vi thường câu cá ở sông Hoài. Có khi cả ngày tìm không được một bữa cơm. Phiếu mẫu thương thình thường cho cơm ăn.
(Xem: 6061)
Tướng nước Yên là nhạc Nghị đem quân đánh nước Tề. Trong vòng 6 tháng mà hạ được 70 thành của Tề. Chỉ còn hai thành thôi là Cử Châu và Tức Mặc đương hấp hối trước lực lượng của Yên.
(Xem: 6144)
Việt Nam, những nghi lễ về cưới gả vốn của Trung Hoa truyền sang từ thời Bắc thuộc (111 trước D.L.) do hai quan thái thú Tích Quang và Nhâm Diên.
(Xem: 6076)
Nước Nam vào thời kỳ Nam Bắc phân tranh (1528-1788). Từ Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê đến nhà Lê trung hưng, nước Nam lại chia làm hai miền: Bắc thuộc họ Trịnh, Nam thuộc họ Nguyễn.
(Xem: 8307)
Bình Nguyên Quân tên Thắng, người nước Triệu đời Chiến Quốc. Được vua Huệ vương cử làm Tướng quốc phong cho đất Bình Nguyên nên gọi là Bình Nguyên Quân.
(Xem: 8767)
Hậu Nghệ có công bắn 9 mặt trời cứu bá tính khỏi chết trong biển lửa nên được nhân dân kính mến, suy tôn làm hoàng đế. Lên làm vua, Nghệ lại cướp giựt của cải của nhân dân.
(Xem: 8174)
Hán đánh triệu. Tướng Hán là Hàn Tín bảo các tướng sĩ của mình: - Hôm nay phá Triệu ắt thành công. Vậy ba quân chỉ ăn cơm sơ qua đỡ lòng...
(Xem: 5815)
Tề là nước tiếp giáp của Lỗ. Trước sự cường thịnh của Lỗ, Tề hầu là Tề Cảnh Công lo sợ bị Lỗ thôn tính. Quan đại phu nước Tề là Lê Di hiến kế...
(Xem: 5764)
Sô Kỵ là một người hiền lại có tài chính trị đời Chiến Quốc, làm Tướng quốc nước Tề dưới triều Tề Uy Vương. Ông hết lòng lo chính sự, thường lưu ý dò xét trong bọn các quan ấp để xem ai hiền, ai không hiền.
(Xem: 5810)
Nguyên nhà Đường từ đời vua Đại Tông (763-765) đến Hy Tông (874-888) thì quốc thế càng suy vi. Phiên trấn hoành bạo ở ngoài, hoạn quan chuyên chính bên trong.
(Xem: 5858)
Đời Xuân Thu, Sái Hầu và Tức Hầu cùng lấy gái nước Trần làm phu nhân. Tức phu nhân là nàng Tức Vĩ nhan sắc tuyệt vời. Nhân khi về thăm cố quốc, ngang qua nước Sái, Sái Hầu mời vào cung thết đãi.
(Xem: 5468)
Trong kho tàng dân ca Việt Nam, trống quân là một loại hát rất bình dânphổ biến tại miền Bắc; và đặc biệt hát trong các dịp hội hè mùa thu...
(Xem: 5939)
Điêu Thuyền là một giai nhân tuyệt sắc đời mạt Hán. Cũng như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Ngọc Hoàn, Điêu Thuyền có tiếng là "bế nguyệt" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 5266)
Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu...
(Xem: 6422)
Đời Tam Quốc, em trai của Ngô chúa Tôn Quyền là Tôn Dực làm Thái thú quận Đan Dương. Dực vốn tính cương cường, nóng nảy lại hay rượu.
(Xem: 6373)
Hội đồng Trạch có cả chục ngàn mẫu ruộng. Theo lời cháu chắt ông kể lại, toàn tỉnh Bạc Liêu bấy giờ có 13 lô ruộng thì hết 11 lô là của ông Trạch.
(Xem: 6196)
Điển tích "Ba đào"- sóng lớn - trong sách Dị Văn lục: Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hoá Chiêu, Lương Tiểu Nga.
(Xem: 7690)
"Tung hoành gia" là một học phái trong Cửu Lưu, tức là chín học phái lớn nhứt hay là chín dòng tư tưởng đời Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung Hoa...
(Xem: 9386)
Đời Tam Quốc, nhà Thục đến hồi suy mạt. Thục chúa là Lưu Thiện, con của Lưu Bị, sau khi Khổng Minh chết, nghe lời gian thần là Hoàng Hạo đắm mê tửu sắc, không nối được chí lớn của cha...
(Xem: 8714)
Chu Công tên Đán, người đời nhà Chu (1135-221 trước D.L.), có tài trị nước. "Thổ bộ" do nguyên câu: "Nhất phạn tam thổ bộ" nghĩa là "Một bữa ăn phải nhả cơm ba lần".
(Xem: 6827)
Tư Mã Thiên tự Tử Thường (145-87 trước D.L.), người huyện Long Môn (nay thuộc huyện Hán Thành, tỉnh Thiểm Tây) đời Hán Vũ đế. Cha của ông là Tư Mã Đàm, một nhà văn học danh tiếng làm chức thái sử tại triều.
(Xem: 5547)
"Mây Tần" nghĩa bóng chỉ nhớ nhà, nhớ quê hương, cha mẹ. Còn những tiếng "Mây trắng", "Mây Hàng", "Mây bạc", "Mây vàng" cũng để nói ý nhớ gia đình, nhớ cha mẹ, quê hương.
(Xem: 6456)
"Tiền Xích Bích phú " là một áng văn chương kiệt tác của Tô Đông Pha (1036-1101), một văn hào đời nhà Tống (950-1275). Đông Pha tên là Thức, tự Tử Chiêm...
(Xem: 8542)
Nước Việt, năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua. Vua Lê Chiêu Tông bị họ Mạc bắt nhốt định giết chết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant