Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đào Hoa Phu Nhân

16 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 5809)
Đào Hoa Phu Nhân
 

Đời Xuân Thu, Sái Hầu và Tức Hầu cùng lấy gái nước Trần làm phu nhân.
Tức phu nhân là nàng Tức Vĩ nhan sắc tuyệt vời. Nhân khi về thăm cố quốc, ngang qua nước Sái, Sái Hầu mời vào cung thết đãi. Trong lúc tiệc rượu, Sái Hầu tỏ vẻ chớt nhả. Tức Vĩ giận lắm bỏ đi. Và khi ở nước Trần trở về nước Tức, nàng không đi ngang nước Sái nữa.
Tức Hầu nghe Sái Hầu trổ mòi "xấu" với vợ mình như thế, mới nghĩ cách báo thù, sai sứ vào cống nước Sở, và mật cáo với Sở Văn vương: Sái Hầu cậy thế có Tề, không chịu phục Sở. Bây giờ quý quốc giả cách đem quân sang đánh nước tôi, nước tôi sang cầu cứu nước Sái. Sái Hầu là người nông nổi, tất nhiên vội vàng sang cứu. Bấy giờ nước tôi cùng quý quốc hợp binh đánh thì có thể bắt được Sái Hầu.
Sở Văn vương mừng lắm. Quả thực bắt được Sái Hầu. Muốn giết đi nhưng nhờ quần thần can gián mới tha, cho Sái Hầu đầu hàng. Sái Hầu biết mắc mẹo của Tức Hầu nên lấy làm tức lắm. Một hôm, Sở Văn vương mở tiệc tiễn Sái Hầu về nước. Trong bữa tiệc có đoàn nữ nhạc ra múa hát. Trong đó có một con hát ngồi gảy đàn, nhan sắc đẹp lắm. Sở Văn vương liền bảo con hát ấy đến mời Sái Hầu một chén rượu. Sái Hầu uống xong, đoạn tự rót lấy rượu, hai tay dâng chén lên để chúc thọ Sở Văn vương. Vua Sở tiếp lấy cười, hỏi:
- Hiền hầu xưa nay có được trông thấy một người con gái nào đẹp lắm không?
Sái Hầu sực nhớ đến cái thù của Tức Hầu trước kia xúi Sở đánh Sái, mới đáp:
- Gái đẹp trong thiên hạ, tôi tưởng không ai bằng Tức Vĩ. Thật là một tiên nữ trên trời.
Sở Văn vương hỏi:
- Người đẹp thế nào?
Sái Hầu nói một mạch:
- Mắt như sóng thu, má tựa hoa đào, người tầm thước, dáng yểu điệu. Thật mắt tôi chưa từng thấy đến người thứ hai.
Sở Văn vương nghe nói lấy làm thích quá, bảo:
- Nếu vậy thì ta có được trông thấy Tức Vĩ mới thỏa tấm lòng.
Sái Hầu lại chêm vào:
- Lấy uy linh của đại vương trí dẫu Tề Khương, Tống Tử cũng chẳng khó huống chi là một người đàn bà trong vòng thế lực của mình.
Sở Văn vương muốn chiếm Tức Vĩ, mượn tiếng tuần du, đem quân sang nước Tức. Tức Hầu ra đón rồi mở tiệc thết đãi. Tức Hầu bưng ly rượu chúc mừng Sở Văn vương. Sở Văn vương đỡ lấy, cười tủm tỉm nói:
- Ngày trước ta cũng có một chút công với quý phu nhân, nay ta đến đây, quý phu nhân lại không đáng mời ta một chén rượu hay sao?
Tức Hầu sợ uy nước Sở, không dám trái ý, vâng vâng dạ dạ, truyền vào trong cung gọi Tức Vĩ ra. Một lúc Tức Vĩ trang điểm tuyệt đẹp bước ra, sụp lạy Sở Văn vương.
Sở Văn vương đứng lên. Tức Vĩ lấy chén bằng ngọc, rót đầy rượu vào, đoạn dâng lên Sở Văn vương. Tay trắng cùng với sắc ngọc lẫn màu với nhau. Sở Văn vương trông thấy ngồi ngẩn người ra, toan đưa tay đỡ lấy chén rượu. Nhưng Tức Vĩ lại khoan thai trao chén rượu cho cung nhân để đệ lên Sở Văn vương. Đoạn, nàng cáo từ, lui vào cung. Vua Sở nhìn theo, thần hồn mê mẩn như muốn quyện theo gót son của con người ngọc.
Trở về quán xá, Sở Văn vương ngồi đứng chẳng yên, nằm không an giấc, trước mắt cứ thấp thoáng hình dáng tha thướt yểu điệu của giai nhân.
Hôm sau, Sở Văn vương bày tiệc ở quán xá, cho giáp sĩ phục cả chung quanh, rồi mời Tức Hầu đến dự tiệc. Tiệc đến nửa chừng, Sở Văn vương giở giọng say bảo Tức Hầu:
- Ta có công với quý phu nhân nhiều lắm, nay quân ta tới đây, quý phu nhân lại không đáng vì ta mà khao thưởng hay sao?
Tức Hầu thưa:
- Nước tôi bé nhỏ lắm, khó lòng mà khao thưởng cho đủ. Đại vương dạy như vậy, xin hãy để cho chúng tôi bàn nhau.
Sở Văn vương vỗ bàn, quát mắng:
- Đứa thất phu này dám bội ân, lại giở goịng nói khéo để lừa ta. Quân sĩ đâu hãy bắt lấy nó.
Tức Hầu chưa kịp nói gì thì quân sĩ đổ ra bắt trói. Sở Văn vương đem quân thẳng vào cung, tìm bắt Tức Vĩ. Tức Vĩ nghe tin chồng bị bắt, đau đớn nói:
- Dắt hổ sói về nhà thì còn nói gì nữa!
Đoạn chạy ra sau vườn, toan đâm đầu xuống giếng. Tướng nước Sở là Đấu Đan vội chạy đến, nắm lấy vạt áo, nói:
- Phu nhân không muốn cho Tức Hầu được toàn tính mạng sao? Tội gì mà hai vợ chồng cùng chịu chết!
Đấu Đan bắt đem nộp cho Sở Văn vương.
Thành công một cách dễ dàng, Sở Văn vương nhìn giai nhân hân hoan vô cùng, rồi tức khắc phong làm phu nhân, và an trí Tức Hầu ở Nhữ Thủy. Tức Hầu tức giận mà chết.
Tức Vĩ má tựa hoa đào nên người thường gọi là "Đào hoa phu nhân". Nàng được Sở vương cực kỳ yêu quý. Trong ba năm, sinh được hai con. Tuy ở suốt ba năm trong cung nước Sở nhưng tuyệt nhiên, nàng không nói với Sở vương một lời nào cả. Sở Văn vương cố hỏi tại sao không nói chuyện, Tức Vĩ sa nước mắt gầm mặt xuống mà không đáp lại. Vua càng gạn hỏi, nàng bảo:
- Một thân này phải thờ hai chồng, đã không biết giữ tiết mà chết, lại còn mặt mũi nào nói chuyện với ai nữa!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5561)
Có lần, bố đi chợ phiên hỏi hai con vợ kế muốn xin quà gì. Một cô xin quần áo đẹp, một cô xin ngọc.
(Xem: 5663)
Xưa có một bác nông dân nghèo. Buổi tối, bác thường ngồi bên bếp lửa, nói với bác gái đang xe chỉ...
(Xem: 5720)
Ngày xưa có một cô bé thùy mị, ai thấy cũng yêu. Yêu nhất vẫn là bà, có gì bà cũng đem cho cháu.
(Xem: 5857)
Một bác thợ xay có ba con trai, một nhà xay lúa, một con lừa và một con mèo. Các con trai xay bột...
(Xem: 5501)
Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chung quanh có một khu rừng lớn.
(Xem: 6152)
Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grêten. Ả thường đi giày gót đỏ khi dạo chơi. Ả ngó đông ngó tây...
(Xem: 5902)
Ngày xưa xảy ra một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống.
(Xem: 5394)
Hanh tính lười biếng. Chú chẳng phải làm gì khác ngoài việc hàng ngày chăn một con dê ở ngoài cánh đồng.
(Xem: 5794)
Ngày xưa có hai vợ chồng một bác tiều phu nghèo khó, sống ở ven một khu rừng lớn. Gia đình có hai con.
(Xem: 5456)
Ngày xưa, có một bà già sống một mình trong một tòa lâu đài cổ giữa một khu rừng bao la, rậm rạp. Đó là một mụ phù thủy cừ khôi.
(Xem: 5907)
Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm nông dân.
(Xem: 7925)
Ngày xưa có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã Lâu. Bà có một cô con gái rất xinh đẹp.
(Xem: 7220)
Âu Dã Tử là một kiếm sư đại tài thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông ta đúc ra những thanh gươm rất tốt, chém sắt như chém bùn. Vua nước Việt là Doãn Thường bèn triệu tới...
(Xem: 6388)
Ninh Thích, người nước Vệ đời Xuân Thu. Người có tài kinh bang tế thế. Lúc còn hàn vi, chưa gặp thời, mình mặc áo cộc, đầu đội nón rách, đi chân không...
(Xem: 14383)
Nguyên Nguyễn Tịch, người đời nhà Tấn, là người rất ưa rượu và đàn. Làm quan rồi cáo bịnh về nhà, kết bạn cùng Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn...
(Xem: 6897)
Thắng trận, Sở Trang vương đời Xuân Thu truyền bày tiệc liên hoan, gọi là "Thái bình yến". Phàm các quan văn võ bất cứ cấp nào đều được tham dự.
(Xem: 12742)
Tây Thi là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt đời Chiến Quốc, có tiếng là "Lạc nhạn" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 11977)
Ngũ Kinh (năm quyển sách) cũng như Tứ Thư là những sách làm nền tảng của Nho giáo. Nguyên trước có sáu kinh nhưng vì sự đốt sách của Tần Thủy Hoàng...
(Xem: 8724)
Tứ ThưNgũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
(Xem: 14228)
Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thong thả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn.
(Xem: 8446)
Lễ tang là lễ đặt ra để tỏ lòng thương trọng và kính thờ người chết. Theo Khổng Tử thì trị thiên hạ "trọng nhứt là ba việc: ăn, tang và tế" (Sở trọng giả, thực tang tế).
(Xem: 6722)
"Ngọc tỉnh liên" là "Hoa sen trong giếng ngọc". Đây là bài phú của Mạc Đĩnh Chi. Ông đỗ Trạng nguyên, khi vào bái yết nhà vua, Trần Anh Tông thấy hình dung ông xấu xí quá...
(Xem: 10419)
Một ông lão ở gần cửa ải Nhạn Môn, nơi giáp giới nước Tàu với Phiên Quốc (Hồ) có con ngựa. Một hôm, con ngựa đi mất. Người quen thuộc đều đến thăm hỏi, chia buồn.
(Xem: 5873)
Đời nhà Đường (618-907), triều Lý Thái Tông (Lý Thế Dân), niên hiệu Trinh Quán năm thứ 13, gần thành Trường An có con sông Kinh, nước trong vắt.
(Xem: 9894)
Đuốc hoa do chữ "hoa chúc" là đèn cầy, nến đốt trong phòng của vợ chồng đêm tân hôn. Tiếng "chúc" thời cổ là "đuốc" tức bó đóm to. Ngày nay gọi là "Hỏa bả".
(Xem: 7060)
Thời xưa, người ta tiễn nhau thường bẻ cành liễu đưa cho người đi. Dương Quan là một cửa ảibiên giới tỉnh Thiểm Tây. Đường thi có bài "Tống Nguyên Nhị sứ An Tây"...
(Xem: 6860)
Hàn Tín người đất Hoài Âm nước Sở đời Tây Hán, thuở hàn vi thường câu cá ở sông Hoài. Có khi cả ngày tìm không được một bữa cơm. Phiếu mẫu thương thình thường cho cơm ăn.
(Xem: 6015)
Tướng nước Yên là nhạc Nghị đem quân đánh nước Tề. Trong vòng 6 tháng mà hạ được 70 thành của Tề. Chỉ còn hai thành thôi là Cử Châu và Tức Mặc đương hấp hối trước lực lượng của Yên.
(Xem: 6091)
Việt Nam, những nghi lễ về cưới gả vốn của Trung Hoa truyền sang từ thời Bắc thuộc (111 trước D.L.) do hai quan thái thú Tích Quang và Nhâm Diên.
(Xem: 6028)
Nước Nam vào thời kỳ Nam Bắc phân tranh (1528-1788). Từ Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê đến nhà Lê trung hưng, nước Nam lại chia làm hai miền: Bắc thuộc họ Trịnh, Nam thuộc họ Nguyễn.
(Xem: 8265)
Bình Nguyên Quân tên Thắng, người nước Triệu đời Chiến Quốc. Được vua Huệ vương cử làm Tướng quốc phong cho đất Bình Nguyên nên gọi là Bình Nguyên Quân.
(Xem: 8700)
Hậu Nghệ có công bắn 9 mặt trời cứu bá tính khỏi chết trong biển lửa nên được nhân dân kính mến, suy tôn làm hoàng đế. Lên làm vua, Nghệ lại cướp giựt của cải của nhân dân.
(Xem: 8116)
Hán đánh triệu. Tướng Hán là Hàn Tín bảo các tướng sĩ của mình: - Hôm nay phá Triệu ắt thành công. Vậy ba quân chỉ ăn cơm sơ qua đỡ lòng...
(Xem: 5766)
Tề là nước tiếp giáp của Lỗ. Trước sự cường thịnh của Lỗ, Tề hầu là Tề Cảnh Công lo sợ bị Lỗ thôn tính. Quan đại phu nước Tề là Lê Di hiến kế...
(Xem: 5721)
Sô Kỵ là một người hiền lại có tài chính trị đời Chiến Quốc, làm Tướng quốc nước Tề dưới triều Tề Uy Vương. Ông hết lòng lo chính sự, thường lưu ý dò xét trong bọn các quan ấp để xem ai hiền, ai không hiền.
(Xem: 5754)
Nguyên nhà Đường từ đời vua Đại Tông (763-765) đến Hy Tông (874-888) thì quốc thế càng suy vi. Phiên trấn hoành bạo ở ngoài, hoạn quan chuyên chính bên trong.
(Xem: 5434)
Trong kho tàng dân ca Việt Nam, trống quân là một loại hát rất bình dânphổ biến tại miền Bắc; và đặc biệt hát trong các dịp hội hè mùa thu...
(Xem: 5855)
Điêu Thuyền là một giai nhân tuyệt sắc đời mạt Hán. Cũng như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Ngọc Hoàn, Điêu Thuyền có tiếng là "bế nguyệt" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 5229)
Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu...
(Xem: 6382)
Đời Tam Quốc, em trai của Ngô chúa Tôn Quyền là Tôn Dực làm Thái thú quận Đan Dương. Dực vốn tính cương cường, nóng nảy lại hay rượu.
(Xem: 6333)
Hội đồng Trạch có cả chục ngàn mẫu ruộng. Theo lời cháu chắt ông kể lại, toàn tỉnh Bạc Liêu bấy giờ có 13 lô ruộng thì hết 11 lô là của ông Trạch.
(Xem: 6143)
Điển tích "Ba đào"- sóng lớn - trong sách Dị Văn lục: Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hoá Chiêu, Lương Tiểu Nga.
(Xem: 7651)
"Tung hoành gia" là một học phái trong Cửu Lưu, tức là chín học phái lớn nhứt hay là chín dòng tư tưởng đời Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung Hoa...
(Xem: 9333)
Đời Tam Quốc, nhà Thục đến hồi suy mạt. Thục chúa là Lưu Thiện, con của Lưu Bị, sau khi Khổng Minh chết, nghe lời gian thần là Hoàng Hạo đắm mê tửu sắc, không nối được chí lớn của cha...
(Xem: 8670)
Chu Công tên Đán, người đời nhà Chu (1135-221 trước D.L.), có tài trị nước. "Thổ bộ" do nguyên câu: "Nhất phạn tam thổ bộ" nghĩa là "Một bữa ăn phải nhả cơm ba lần".
(Xem: 6790)
Tư Mã Thiên tự Tử Thường (145-87 trước D.L.), người huyện Long Môn (nay thuộc huyện Hán Thành, tỉnh Thiểm Tây) đời Hán Vũ đế. Cha của ông là Tư Mã Đàm, một nhà văn học danh tiếng làm chức thái sử tại triều.
(Xem: 5510)
"Mây Tần" nghĩa bóng chỉ nhớ nhà, nhớ quê hương, cha mẹ. Còn những tiếng "Mây trắng", "Mây Hàng", "Mây bạc", "Mây vàng" cũng để nói ý nhớ gia đình, nhớ cha mẹ, quê hương.
(Xem: 6397)
"Tiền Xích Bích phú " là một áng văn chương kiệt tác của Tô Đông Pha (1036-1101), một văn hào đời nhà Tống (950-1275). Đông Pha tên là Thức, tự Tử Chiêm...
(Xem: 8485)
Nước Việt, năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua. Vua Lê Chiêu Tông bị họ Mạc bắt nhốt định giết chết.
(Xem: 6178)
Năm Nhâm thân (1572), nhà Mạc sai tướng là quận công Lập Bạo đem quân đánh Thuận Quảng là đất chúa Nguyễn ở miền Nam. Lập Bạo huy động cả thảy lục quân tiến vào.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant