Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Jôrinđơ và Jôgigơn

29 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 5453)
Jôrinđơ và Jôgigơn

Ngày xưa, có một bà già sống một mình trong một tòa lâu đài
cổ giữa một khu rừng bao la, rậm rạp. Đó là một mụ phù thủy cừ
khôi. Ban ngày, mụ hóa thành mèo hoặc cú vọ. Đến chiều tối, mụ
lại hiện nguyên hình người. Mụ có tài dụ dỗ muông thú để giết lấy
thịt nấu nước ăn. Quanh lâu đài một trăm bước, ai đi đến tự dưng
đứng sững tại chỗ, chỉ bước đi được khi mụ phù thủy cho phép. Khi
một cô gái trong sạch lọt vào cái vòng ma quái đó thì mụ sẽ hóa
phép biến thành chim, mụ đem nhốt vào lồng rồi đặt lồng vào một
phòng của lâu đài.
Có một cô gái tên là Jôrinđơ, đẹp hơn tất cả các cô gái khác. Cô
đã hứa hôn với chàng trai tên là Jôringơn. Đôi trai gái sống những
ngày chờ cưới và quấn quít bên nhau.
Để được chuyện trò thoải mái, một hôm họ vào rừng dạo chơi.
- Em cẩn thận chớ đến quá gần lâu đài! - Jôringơn dặn.
Buổi chiều thật là đẹp. Mặt trời còn chiếu nắng qua các thân
cây thành các vệt sáng trên nền trời xanh thẫm của rừng. Chim gáy
gù rầu rĩ trên cây sồi.
Jôrinđơ thỉnh thoảng lại khóc lóc, ngồi dưới ánh nắng mà than
vãn, Jôringơn cũng than vãn. Họ xúc động như chết đến nơi. Họ
nhìn quanh, nhưng lại không tìm ra đường về nhà. Mặt trời đã
khuất một nửa sau rặng núi. Đúng lúc đó Jôringơn nhìn qua bụi
rậm thấy các bức tường cổ của lâu đài hiện ra sát bên mình. Anh sợ
hãi tái nhợt như người chết. Jôrinđơ hát:
- Con chim bé nhỏ của tôi đeo chiếc nhẫn vàng.
Rên rỉ buồn thảm, nó khóc than cái chết của con chim bồ câu
Jôringơn quay lại nhìn Jôrinđơ thì thấy cô đã hóa thành một
con chim họa mi đang hót. Một con cú có đôi mắt như lửa đỏ bay
quanh cô ba lần và kêu ba lần: "Hú! Hú! Hú!" Jôringơn không nhúc
nhích được. Anh đứng nguyên tại chỗ như phỗng đá, không khóc
được. Mặt trời đã lặn. Con cú bay vào bụi rậm và ngay sau đó một
mụ già gù từ trong bụi bước ra. Mụ gày gò, vàng vọt, có đôi mắt đỏ
rực, cái mũi khoằm và nhọn chấm sát cằm. Mụ làu nhàu, bắt chim
họa mi để lên tay mang đi. Jôringơn không nói gì được, không động
đậy được. Chim họa mi không còn ở đấy nữa. Cuối cùng, mụ già trở
lại nói giọng âm u: "Ta chào ngươi, đồ ngu. Khi nào trăng chiếu
sáng cái rổ nhỏ này là lúc xéo đi ngay, đồ ngu ạ". Thế là Jôringơn
thoát. Anh quỳ xuống chân mụ già, van xin mụ hãy tha cho
Jôrinđơ. Mụ trả lời là không bao giờ anh lại nhìn thấy mặt cô nữa,
rồi mụ đi. Anh gào khóc và rên rỉ nhưng vô ích: "Trời ơi! Cái gì sẽ
đến với tôi đây?". Jôringơn rời chỗ đó đến một làng quê xa lạ. Một
thời gian dài, anh chăn cừu. Nhiều lần anh đi quanh lâu đài, nhưng
không lại gần quá.
Một đêm, anh ngủ mê thấy mình được một bông hoa đỏ như
máu, ở giữa có một hạt ngọc to và đẹp vô cùng. Anh hái bông hoa,
tiến đến lâu đài. Hoa đụng vào cái gì thì cái đó liền thoát khỏi phù
phép. Anh cũng mơ thấy nhờ có bông hoa, anh lấy lại được Jôrinđơ.
Sáng sớm ngủ dậy, anh ra đi, trèo đèo, lội suối, đi tìm bông hoa như
đã mơ thấy. Anh đi tám ngày, sáng sớm ngày thứ chín, anh tìm
thấy bông hoa đỏ như máu. Một giọt sương to, đẹp như hạt ngọc đẹp
nhất trần gian, nằm ở giữa nhị hoa. Anh cầm hoa đi suốt ngày đêm
tới lâu đài. Khi còn cách một trăm bước, anh không bị đứng bất
động. Anh tiếp tục đi đến cửa lâu đài. Lòng tràn ngập vui sướng,
anh chạm bông hoa vào cửa. Cửa mở toang ra. Đi qua sân, anh vào
lâu đài. Anh lắng nghe chim hót một lúc. Rồi anh đi về phía có chim
hót. Anh tìm ra căn phòng mà ở đó mụ phù thủy đang cho chim ăn;
chim bị nhốt trong bảy nghìn chiếc lồng nhỏ. Khi mụ nhận ra
Jôringơn, mụ nổi giận, mụ giận dữ kêu thét ầm ĩ, phun thuốc độc
và mật đắng vào anh, nhưng mụ không tiến lại gần anh một
khoảng cách là hai bước. Anh không để ý gì đến mụ, tiếp tục đi
nhìn các lồng có nhốt chim. Anh thấy hàng trăm con chim họa mi.
Làm thế nào tìm được ra Jôrinđơ trong số chim đó? Trong khi chú ý
nhìn chim, anh nhận thấy mụ già rón rén đi lấy một cái lồng nhốt
một con chim rồi bước về phía cửa.
Anh nhẩy bổ lại gần mụ, chạm bông hoa vào cái lồng và mụ ta.
Thế là phép phù thủy mụ hết thiêng! Jôrinđơ hiện ra đứng đó, ôm
cổ anh, vẫn đẹp như xưa. Rồi anh giúp cho tất cả mọi con chim hoàn
nguyên hình thành thiếu nữ. Anh cùng Jôrinđơ về nhà và sống
hạnh phúc cho đến khi đầu bạc răng long.
Câu chuyện ca ngợi tình yêu bất diệt: tình yêu sẽ chiến thắng
tất cả những thế lực xấu xa nhất. Đồng thời kẻ gây tội ác bao giờ
cũng bị trừng trị thích đáng.





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5560)
Có lần, bố đi chợ phiên hỏi hai con vợ kế muốn xin quà gì. Một cô xin quần áo đẹp, một cô xin ngọc.
(Xem: 5661)
Xưa có một bác nông dân nghèo. Buổi tối, bác thường ngồi bên bếp lửa, nói với bác gái đang xe chỉ...
(Xem: 5720)
Ngày xưa có một cô bé thùy mị, ai thấy cũng yêu. Yêu nhất vẫn là bà, có gì bà cũng đem cho cháu.
(Xem: 5857)
Một bác thợ xay có ba con trai, một nhà xay lúa, một con lừa và một con mèo. Các con trai xay bột...
(Xem: 5501)
Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chung quanh có một khu rừng lớn.
(Xem: 6152)
Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grêten. Ả thường đi giày gót đỏ khi dạo chơi. Ả ngó đông ngó tây...
(Xem: 5902)
Ngày xưa xảy ra một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống.
(Xem: 5394)
Hanh tính lười biếng. Chú chẳng phải làm gì khác ngoài việc hàng ngày chăn một con dê ở ngoài cánh đồng.
(Xem: 5793)
Ngày xưa có hai vợ chồng một bác tiều phu nghèo khó, sống ở ven một khu rừng lớn. Gia đình có hai con.
(Xem: 5905)
Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm nông dân.
(Xem: 7923)
Ngày xưa có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã Lâu. Bà có một cô con gái rất xinh đẹp.
(Xem: 7219)
Âu Dã Tử là một kiếm sư đại tài thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông ta đúc ra những thanh gươm rất tốt, chém sắt như chém bùn. Vua nước Việt là Doãn Thường bèn triệu tới...
(Xem: 6385)
Ninh Thích, người nước Vệ đời Xuân Thu. Người có tài kinh bang tế thế. Lúc còn hàn vi, chưa gặp thời, mình mặc áo cộc, đầu đội nón rách, đi chân không...
(Xem: 14382)
Nguyên Nguyễn Tịch, người đời nhà Tấn, là người rất ưa rượu và đàn. Làm quan rồi cáo bịnh về nhà, kết bạn cùng Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn...
(Xem: 6895)
Thắng trận, Sở Trang vương đời Xuân Thu truyền bày tiệc liên hoan, gọi là "Thái bình yến". Phàm các quan văn võ bất cứ cấp nào đều được tham dự.
(Xem: 12742)
Tây Thi là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt đời Chiến Quốc, có tiếng là "Lạc nhạn" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 11974)
Ngũ Kinh (năm quyển sách) cũng như Tứ Thư là những sách làm nền tảng của Nho giáo. Nguyên trước có sáu kinh nhưng vì sự đốt sách của Tần Thủy Hoàng...
(Xem: 8721)
Tứ ThưNgũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
(Xem: 14225)
Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thong thả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn.
(Xem: 8443)
Lễ tang là lễ đặt ra để tỏ lòng thương trọng và kính thờ người chết. Theo Khổng Tử thì trị thiên hạ "trọng nhứt là ba việc: ăn, tang và tế" (Sở trọng giả, thực tang tế).
(Xem: 6716)
"Ngọc tỉnh liên" là "Hoa sen trong giếng ngọc". Đây là bài phú của Mạc Đĩnh Chi. Ông đỗ Trạng nguyên, khi vào bái yết nhà vua, Trần Anh Tông thấy hình dung ông xấu xí quá...
(Xem: 10411)
Một ông lão ở gần cửa ải Nhạn Môn, nơi giáp giới nước Tàu với Phiên Quốc (Hồ) có con ngựa. Một hôm, con ngựa đi mất. Người quen thuộc đều đến thăm hỏi, chia buồn.
(Xem: 5872)
Đời nhà Đường (618-907), triều Lý Thái Tông (Lý Thế Dân), niên hiệu Trinh Quán năm thứ 13, gần thành Trường An có con sông Kinh, nước trong vắt.
(Xem: 9893)
Đuốc hoa do chữ "hoa chúc" là đèn cầy, nến đốt trong phòng của vợ chồng đêm tân hôn. Tiếng "chúc" thời cổ là "đuốc" tức bó đóm to. Ngày nay gọi là "Hỏa bả".
(Xem: 7059)
Thời xưa, người ta tiễn nhau thường bẻ cành liễu đưa cho người đi. Dương Quan là một cửa ảibiên giới tỉnh Thiểm Tây. Đường thi có bài "Tống Nguyên Nhị sứ An Tây"...
(Xem: 6859)
Hàn Tín người đất Hoài Âm nước Sở đời Tây Hán, thuở hàn vi thường câu cá ở sông Hoài. Có khi cả ngày tìm không được một bữa cơm. Phiếu mẫu thương thình thường cho cơm ăn.
(Xem: 6013)
Tướng nước Yên là nhạc Nghị đem quân đánh nước Tề. Trong vòng 6 tháng mà hạ được 70 thành của Tề. Chỉ còn hai thành thôi là Cử Châu và Tức Mặc đương hấp hối trước lực lượng của Yên.
(Xem: 6091)
Việt Nam, những nghi lễ về cưới gả vốn của Trung Hoa truyền sang từ thời Bắc thuộc (111 trước D.L.) do hai quan thái thú Tích Quang và Nhâm Diên.
(Xem: 6027)
Nước Nam vào thời kỳ Nam Bắc phân tranh (1528-1788). Từ Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê đến nhà Lê trung hưng, nước Nam lại chia làm hai miền: Bắc thuộc họ Trịnh, Nam thuộc họ Nguyễn.
(Xem: 8263)
Bình Nguyên Quân tên Thắng, người nước Triệu đời Chiến Quốc. Được vua Huệ vương cử làm Tướng quốc phong cho đất Bình Nguyên nên gọi là Bình Nguyên Quân.
(Xem: 8698)
Hậu Nghệ có công bắn 9 mặt trời cứu bá tính khỏi chết trong biển lửa nên được nhân dân kính mến, suy tôn làm hoàng đế. Lên làm vua, Nghệ lại cướp giựt của cải của nhân dân.
(Xem: 8114)
Hán đánh triệu. Tướng Hán là Hàn Tín bảo các tướng sĩ của mình: - Hôm nay phá Triệu ắt thành công. Vậy ba quân chỉ ăn cơm sơ qua đỡ lòng...
(Xem: 5765)
Tề là nước tiếp giáp của Lỗ. Trước sự cường thịnh của Lỗ, Tề hầu là Tề Cảnh Công lo sợ bị Lỗ thôn tính. Quan đại phu nước Tề là Lê Di hiến kế...
(Xem: 5720)
Sô Kỵ là một người hiền lại có tài chính trị đời Chiến Quốc, làm Tướng quốc nước Tề dưới triều Tề Uy Vương. Ông hết lòng lo chính sự, thường lưu ý dò xét trong bọn các quan ấp để xem ai hiền, ai không hiền.
(Xem: 5753)
Nguyên nhà Đường từ đời vua Đại Tông (763-765) đến Hy Tông (874-888) thì quốc thế càng suy vi. Phiên trấn hoành bạo ở ngoài, hoạn quan chuyên chính bên trong.
(Xem: 5808)
Đời Xuân Thu, Sái Hầu và Tức Hầu cùng lấy gái nước Trần làm phu nhân. Tức phu nhân là nàng Tức Vĩ nhan sắc tuyệt vời. Nhân khi về thăm cố quốc, ngang qua nước Sái, Sái Hầu mời vào cung thết đãi.
(Xem: 5434)
Trong kho tàng dân ca Việt Nam, trống quân là một loại hát rất bình dânphổ biến tại miền Bắc; và đặc biệt hát trong các dịp hội hè mùa thu...
(Xem: 5852)
Điêu Thuyền là một giai nhân tuyệt sắc đời mạt Hán. Cũng như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Ngọc Hoàn, Điêu Thuyền có tiếng là "bế nguyệt" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 5227)
Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu...
(Xem: 6381)
Đời Tam Quốc, em trai của Ngô chúa Tôn Quyền là Tôn Dực làm Thái thú quận Đan Dương. Dực vốn tính cương cường, nóng nảy lại hay rượu.
(Xem: 6331)
Hội đồng Trạch có cả chục ngàn mẫu ruộng. Theo lời cháu chắt ông kể lại, toàn tỉnh Bạc Liêu bấy giờ có 13 lô ruộng thì hết 11 lô là của ông Trạch.
(Xem: 6141)
Điển tích "Ba đào"- sóng lớn - trong sách Dị Văn lục: Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hoá Chiêu, Lương Tiểu Nga.
(Xem: 7651)
"Tung hoành gia" là một học phái trong Cửu Lưu, tức là chín học phái lớn nhứt hay là chín dòng tư tưởng đời Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung Hoa...
(Xem: 9332)
Đời Tam Quốc, nhà Thục đến hồi suy mạt. Thục chúa là Lưu Thiện, con của Lưu Bị, sau khi Khổng Minh chết, nghe lời gian thần là Hoàng Hạo đắm mê tửu sắc, không nối được chí lớn của cha...
(Xem: 8668)
Chu Công tên Đán, người đời nhà Chu (1135-221 trước D.L.), có tài trị nước. "Thổ bộ" do nguyên câu: "Nhất phạn tam thổ bộ" nghĩa là "Một bữa ăn phải nhả cơm ba lần".
(Xem: 6790)
Tư Mã Thiên tự Tử Thường (145-87 trước D.L.), người huyện Long Môn (nay thuộc huyện Hán Thành, tỉnh Thiểm Tây) đời Hán Vũ đế. Cha của ông là Tư Mã Đàm, một nhà văn học danh tiếng làm chức thái sử tại triều.
(Xem: 5510)
"Mây Tần" nghĩa bóng chỉ nhớ nhà, nhớ quê hương, cha mẹ. Còn những tiếng "Mây trắng", "Mây Hàng", "Mây bạc", "Mây vàng" cũng để nói ý nhớ gia đình, nhớ cha mẹ, quê hương.
(Xem: 6395)
"Tiền Xích Bích phú " là một áng văn chương kiệt tác của Tô Đông Pha (1036-1101), một văn hào đời nhà Tống (950-1275). Đông Pha tên là Thức, tự Tử Chiêm...
(Xem: 8484)
Nước Việt, năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua. Vua Lê Chiêu Tông bị họ Mạc bắt nhốt định giết chết.
(Xem: 6178)
Năm Nhâm thân (1572), nhà Mạc sai tướng là quận công Lập Bạo đem quân đánh Thuận Quảng là đất chúa Nguyễn ở miền Nam. Lập Bạo huy động cả thảy lục quân tiến vào.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant