TRIẾT
LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Đại sư Tăng Xán khi còn làm cư sĩ, thân có bệnh ghẻ lở, đến yết kiến Tổ Huệ Khả và thưa rằng: “Đệ tử bị bệnh tật từ trước vướng vít theo mãi. Nay thỉnh Hòa thượng sám hối tội lỗi cho.”
Nhị Tổ đem lý tội tánh vốn không mà giảng cho nghe. Tăng Xán lại hỏi rằng: “Nay đệ tử được thấy Hòa thượng, tức là Tăng. Nhưng đệ tử thật chưa biết Phật và Pháp là gì.”
Tổ đáp: “Tâm là Phật, Tâm là Pháp. Phật và Pháp vốn không hai, Tăng bảo lại cũng như vậy.”
Tăng Xán nói: “Nay tôi mới biết tội tánh vốn chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở khoảng giữa. Nó cũng như Tâm vậy.”
Tăng Xán liền lễ Tổ cầu xin xuất gia. Tổ Huệ Khả biết là bậc pháp khí, bèn thâu nhận và cho thọ giới cụ túc, lại đặt tên hiệu cho là Tăng Xán. Bệnh tật lâu năm của người dần dần tiêu mất. Ngài làm thị giả cho Nhị Tổ trong hai năm. Khi thấy tâm đạo của ngài đã thuần thục, Tổ liền pháp và truyền y bát.
Nhị Tổ lại dạy rằng: “Ngươi được truyền pháp rồi, nên vào núi sâu mà ở. Lúc này chưa phải thời cơ để hành đạo. Trong nước đang có nạn. Và qua đến đời Hậu Châu thì sẽ có pháp nạn.”
Sau đó, Tổ Tăng Xán bèn đi vào núi Tư Không, khi ở chỗ này, lúc ở chỗ khác. Ngài vào núi La-phù, vì chúng mà quảng tuyên chỗ tâm yếu. Ngài lập Pháp hội, khai hóa nơi cội cây.
Đến triều Huyền Tông (713 – 755) nhà Đường, có Sắc thụy phong cho ngài là Giám Trí Đại Thiền sư.
Trước khi tịch, ngài truyền y bát cho Đại sư Đạo Tín làm Tổ đời thứ tư, có bài kệ truyền pháp rằng:
Hoa chủng tuy nhân địa,
Tùng địa chủng hoa sanh;
Nhược vô nhân hạ chủng,
Hoa Địa tận vô sanh.
華種雖因地
從地種華生
若無人下種
華地盡無生。
Dịch nghĩa
Giống hoa tuy cậy đất điền,
Nương nhờ giống đất, hoa liền sanh ra.
Không nhân, gieo giống chi mà?
Cả hoa với đất đều là không sanh.
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
V. Chư Tổ sư Đông độ
3.TAM TỔ TĂNG XÁN
三祖僧璨Đại sư Tăng Xán khi còn làm cư sĩ, thân có bệnh ghẻ lở, đến yết kiến Tổ Huệ Khả và thưa rằng: “Đệ tử bị bệnh tật từ trước vướng vít theo mãi. Nay thỉnh Hòa thượng sám hối tội lỗi cho.”
Nhị Tổ đem lý tội tánh vốn không mà giảng cho nghe. Tăng Xán lại hỏi rằng: “Nay đệ tử được thấy Hòa thượng, tức là Tăng. Nhưng đệ tử thật chưa biết Phật và Pháp là gì.”
Tổ đáp: “Tâm là Phật, Tâm là Pháp. Phật và Pháp vốn không hai, Tăng bảo lại cũng như vậy.”
Tăng Xán nói: “Nay tôi mới biết tội tánh vốn chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở khoảng giữa. Nó cũng như Tâm vậy.”
Tăng Xán liền lễ Tổ cầu xin xuất gia. Tổ Huệ Khả biết là bậc pháp khí, bèn thâu nhận và cho thọ giới cụ túc, lại đặt tên hiệu cho là Tăng Xán. Bệnh tật lâu năm của người dần dần tiêu mất. Ngài làm thị giả cho Nhị Tổ trong hai năm. Khi thấy tâm đạo của ngài đã thuần thục, Tổ liền pháp và truyền y bát.
Nhị Tổ lại dạy rằng: “Ngươi được truyền pháp rồi, nên vào núi sâu mà ở. Lúc này chưa phải thời cơ để hành đạo. Trong nước đang có nạn. Và qua đến đời Hậu Châu thì sẽ có pháp nạn.”
Sau đó, Tổ Tăng Xán bèn đi vào núi Tư Không, khi ở chỗ này, lúc ở chỗ khác. Ngài vào núi La-phù, vì chúng mà quảng tuyên chỗ tâm yếu. Ngài lập Pháp hội, khai hóa nơi cội cây.
Đến triều Huyền Tông (713 – 755) nhà Đường, có Sắc thụy phong cho ngài là Giám Trí Đại Thiền sư.
Trước khi tịch, ngài truyền y bát cho Đại sư Đạo Tín làm Tổ đời thứ tư, có bài kệ truyền pháp rằng:
Hoa chủng tuy nhân địa,
Tùng địa chủng hoa sanh;
Nhược vô nhân hạ chủng,
Hoa Địa tận vô sanh.
華種雖因地
從地種華生
若無人下種
華地盡無生。
Dịch nghĩa
Giống hoa tuy cậy đất điền,
Nương nhờ giống đất, hoa liền sanh ra.
Không nhân, gieo giống chi mà?
Cả hoa với đất đều là không sanh.
Send comment