Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12. Mùa thu bếp hồng

14 Tháng Ba 201100:00(Xem: 4593)
12. Mùa thu bếp hồng

LỜI KINH XƯA BUỔI SÁNG NÀY
Tác giả: Nguyễn Duy Nhiên, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

I. Đóa tường vi vẫn nở

Mùa thu bếp hồng

Tôi biết trời vào thu khi những buổi sáng có nhiều sương mù. Ngoài sân có những hạt sương đóng thành băng phủ trắng màu cỏ. Mây như khói trôi vướng trên đỉnh rừng, trên những ngọn đồi có vài khoảng đã chuyển màu vàng nhạt. Hình như mùa thu nào cũng vậy, bắt đầu bằng những ngày mưa ướt át. Chiều qua ra sân sau quét lá, tôi thấy ánh nắng hoàng hôn để lại những dấu vết miên viễn trên khu rừng nhỏ sau nhà. Thu về rồi đó. Có một chiếc lá đỏ rơi nhẹ xuống sân cạnh chỗ tôi đang đứng. Trời đã trở lạnh tự một sáng nào. Không hay.

Đứa con gái tôi mùa thu năm nay được ba tuổi. Có lẽ đây là lần đầu tiên nó biết mùa thu. Tôi sẽ đi với nó ra sân, giúp nó nhặt những chiếc lá màu thật đẹp đem về bỏ vào chiếc cặp đeo lưng đi học của nó. Có mấy hôm đến đón nó ở trường, vào mùa hè, thấy tôi nó chạy lon ton lại từ chiếc xích đu nhỏ ở giữa sân, mỗi tay cầm một chiếc lá khô héo lượm được đâu đó trên sân. Nó cho tôi một cái, còn một cái để dành cho em nó. Nó có vẻ thích hoa lá lắm.

Mùa thu lá đổi màu rộ như hoa, thật huyền diệu. Ngày xưa hay có những thiền sư chống gậy lên núi nhìn mùa thu. Một buổi chiều đứng nhìn đồi núi mùa thu, tôi tưởng chừng như tất cả những tia nắng hoàng hôn trong vũ trụ cùng nhau về đây nghỉ ngơi trên chuyến du hành miên viễn của chúng.

Chiều qua có một người bạn cũ ghé qua thăm. Chúng tôi ra sau nhà uống trà. Trời lành lạnh, tách trà thơm ấm. Anh nhắc cuộc đời trôi nhanh quá. Hình như càng bận rộn bao nhiêu, ngày tháng lại qua mau bấy nhiêu. Chúng tôi ngồi yên. Mây trôi trong tách trà thơm. Anh bạn kể cho tôi nghe những mệt mỏi trên hành trình đã đi. Tu tập cũng không phải là chuyện dễ. Tôi có cảm tưởng như anh là một tráng sĩ, chợt một ngày dừng lại bên rừng thấy chuyện đời là vô nghĩa. Ngay cả cái lý tưởng ban đầu của mình kia cũng là vô nghĩa, dầu có là cao thượng đến đâu. Tách trà của anh đã chứa đựng bao nhiêu mùa thu rồi nhỉ?

Những lời anh nói làm tôi suy nghĩ. Việc anh làm có thật sự cần một lời giải thích nào không? Cuộc sống này có cần phải có một ý nghĩa chăng? Tôi không rõ. Tôi thấy mùa thu lang thang về theo không gian lành lạnh, phảng phất trên một bầu trời ít mây, thấp thoáng trong những chòm lá đang đổi sang màu trái chín. Có hay không thì ý nghĩa ấy mấy ai có thể nói được!

Ngày xưa đọc những câu chuyện về thiền tôi vẫn thường cảm thấy ngẩn ngơ. Những câu chuyện ấy khó hiểu không phải vì chúng quá bí hiểm, mà có lẽ vì chúng quá rõ ràng. Bạn thấy không, đôi khi sự rõ ràng cũng lại có thể là một “chướng ngại” lớn cho tri thức của mình nữa.

Một hôm, có một ông quan ghé thăm thiền sư XuanSha. Cả hai người ngồi nói chuyện ngoài vườn. Ông quan hỏi ngài: “Thưa thầy, tôi vẫn thường nghe người ta nói ‘Chúng ta ai cũng sử dụng NÓ’, nhưng tôi suy nghĩ mãi vẫn chưa hiểu NÓ đó là cái gì?” Thiền sư XuanSha không trả lời, đưa dĩa đựng hạt dưa lên mời ông quan. Ông ta lơ đãng đưa tay bốc lấy một hạt đưa lên miệng cắn, rồi hỏi tiếp: “Thưa thầy, thầy vẫn chưa trả lời cho tôi biết NÓ là cái gì?” Vị thiền sư chỉ những hạt dưa trong dĩa và đáp: “NÓ chính là những CÁI NÀY đây, ông tiếp xúc với nó mỗi ngày mà có biết đâu!”

Một câu chuyện khác. Một người học trò của thiền sư NiaoWo một hôm vào lạy từ giã ngài: “Kính thưa thầy, con xin đội ơn thầy đã bỏ công dạy dỗ con suốt mấy năm nay, nhưng con thấy bây giờ đã đến lúc con phải lên đường.” “Thế con định sẽ đi đâu thế?” Người học trò đáp: “Dạ thưa thầy, con định sẽ đi khắp nơi để tu học Phật pháp.” Thiền sư NiaoWo nói: “Thế sao con không hỏi ta, ta có giữ Phật pháp nơi đây này!” “Ở đâu thầy?” Người đệ tử mở to mắt hỏi. Thiền sư NiaoWo kéo ra một sợi chỉ trong tay áo ngài, nói: “Đây này! Cái này nếu cũng không phải là Phật pháp thì là gì?”

Một câu chuyện thiền khác. Có ba người đệ tử đứng ngoài sân chùa nhìn thấy thầy mình đang đứng một mình trên đồi. Cả ba rủ nhau đi lên đồi hỏi xem thầy mình đứng đấy làm gì. Người thứ nhất hỏi: “Thưa thầy, thầy đứng chờ ai vậy?” “Ta không chờ ai hết.” Người đệ tử thứ hai nói: “Trời đẹp quá, chắc thầy đứng đây để ngắm phong cảnh?” “Không phải.” Người thứ ba hỏi tiếp: “Hay là thầy lên đây để hít thở không khí trong lành?” “Không!” Vị thầy đáp. “Thế thầy đứng đây để làm gì?” Vị thầy nhìn ba người đệ tử, mỉm cười đáp: “Ta đứng đây là vì ta đứng đây. Chỉ có vậy thôi!”

Việc chúng ta làm có cần phải có một ý nghĩa nào không hở bạn? Tôi cũng không rõ! Câu hỏi ấy tưởng chừng như đã trả lời nhưng nhìn cho sâu thì nó không giản dị như ta nghĩ.

Tôi mới đi tham dự một khóa tu học về. Lên núi lá cây trên đường vẫn còn xanh. Sau mấy ngày trở về, trên đường xuống núi lá đã đổi màu, vàng, đỏ, tím ửng tươi. Mấy ngày tu tĩnh trên núi tôi đã học rất nhiều về hạnh phúc, về an lạc. Trên con đường thiền hành, hai đứa con tôi chạy lăng xăng chỉ cho tôi những bông hoa dại, nó ngạc nhiên chăm chú ngồi nhìn những con sâu, con kiến như một phép lạ, một kỳ quan. Nó chưa thắc mắc gì về sự sống. Nó chưa hỏi tôi về ý nghĩa của cuộc đời này. Có lẽ những em bé chỉ biết sống, đơn giản như vị thiền sư đứng một mình trên núi kia. Thiền sư Đạo Nguyên gọi đó là sơ tâm, một bản tâm chân thật sơ nguyên mà tự nó có đầy đủ tất cả. Chưa bao giờ có một câu hỏi.

Xóm mới

Nếu bạn có dịp ghé qua miền này một lần, bạn hãy chọn mùa thu. Không bao giờ có hai mùa thu giống nhau. Cũng như chưa từng bao giờ có hai chiếc lá giống nhau. Người ta thường cho rằng mùa thu biểu hiện cho sự tàn úa, nhưng tôi nghĩ khác. Tôi thấy một sự sống nhiệm mầu biểu hiện trong mùa thu. Bạn có bao giờ đi dạo trong rừng thu chưa? Nhất là vào những buổi hoàng hôn lộng gió, nắng và lá hòa nhập vào nhau biến hóa trùng trùng màu sắc. Âm thanh của lá lào xào trên cao, dưới chân như tiếng sóng trùng dương.

Có một vị thiền sư, đêm đông bước chân ra về từ nhà người bạn. Tuyết mới bắt đầu rơi. Ngước mặt nhìn những bông tuyết mới tinh, ngài quay sang bảo người bạn: “À, nhìn những bông tuyết ngoan hiền kia, mỗi hạt tuyết đều rơi xuống đất đúng theo vị trí đã định sẵn của chúng!” Bạn có thấy vậy không, mỗi chiếc lá đều có một vị trí, sự sống riêng biệt và đặc thù của nó. Thật kỳ diệu!

Chúng tôi rót thêm trà. Khói bốc lên ấm một khoảng không gian nhỏ bé. Vì sao chúng ta lại làm những chuyện mình đang làm! Tôi không nghĩ đó là một câu hỏi, nên có lẽ không cần một câu trả lời. Ta hãy trở về với hơi thở của mình để tìm lại ngọn lửa ấm trong tâm, để sưởi ấm đôi bàn tay. Tôi nhớ có đọc một bài thơ rất đẹp nói về bếp hồng lửa ấm.

Sáng hôm nay hộp diêm của tôi hết rồi
bếp lạnh như trời cuối thu ướt lạnh
tác phẩm dở dang còn đó
tôi sang nhà láng giềng xin lửa
(hồi bé chúng ta thường hai đứa chạy xin)
em hỏi tôi sẽ làm sao nếu nhà láng giềng không còn lửa
- chúng tôi sẽ họp hai người hát ca
nhớ lời em dặn ‘là những bông hoa’
chúng tôi sẽ cầm đuốc đi bên nhau hướng về xóm mới
em cũng cứ hát ca đi, trong khi chờ đợi,
thế nào trong xóm ta cũng có nhà còn lửa.

Thôi tôi xin mọi người đưa tay nói thực: có phải tất cả chúng ta đang tin ở điều đó như đang tin hôm nay ở hiện hữu nhiệm mầu?

Tôi biết có những nhà nghèo, nhưng trấu hồng ngún cháy ngày đêm trong bếp hồng âm ỉ
tôi sẽ nhớ lời em không quấy động bếp lành
một nắm rơm đặt vào
đợi khói tỏa màu xanh,
em nhìn xem: chỉ một hơi thở nhẹ của hồn tôi thôi
cũng đủ gọi về lửa đỏ.
Anh về, người lữ khách hôm nay thấy lòng ấm áp
một buổi chiều nhìn khói lam ấp ủ mái tranh thơ
về xóm mới chúng tôi đi!
Tất cả vẫn mong chờ
em tôi vẫn còn trông nom chút lửa hồng bếp cũ
Mái chèo xuôi nước sông
thuyền về không do dự
sao đêm an lành thuyền anh đi mãi
nhìn bóng chiều sa không ngại
vì biết tình thương hôm nay còn đủ sưởi ấm ngày mai
Bếp tôi ấm rồi, mời anh về với chúng tôi thôi
công phu của ai ngàn năm bắc một nhịp cầu nối liền xa cách
tác phẩm còn tươi nét mực
lấy giọng trong lành,
em tôi sẽ đọc
cho chúng mình nghe,
bên tiếng nổ tí tách của những
cành lửa reo vui.

Có lẽ một đôi khi chúng ta cũng cần phải đi tìm một chút lửa về đun ấm lại bếp hồng của nhà mình. Bạn hãy nhớ trông nom chút lửa hồng trong bếp cũ. Chỉ khi nào bếp ta nguội lạnh, ta mới bắt đầu có những thắc mắc về cuộc sống. Trong những ngày tu học, chúng tôi tập có ý thức về hơi thở, về sự sống; chúng tôi tập mỉm cười, săn sóc lại ngọn lửa ấm trong bếp hồng nhà mình...

Ngày xưa có một vị lương y trong quân đội. Vào thời có chiến tranh ông phải tháp tùng quân lính ra trận và có nhiệm vụ săn sóc, cứu thương cho binh sĩ. Năm này sang năm nọ, ông nhìn thấy những binh sĩ mà ông mới vừa cứu sống, lại leo lên ngựa xông ra chiến trận, rồi lại bị thương hoặc có đôi khi tử trận.

Vị lương y đâm ra chán nản, không biết những việc mình làm thật sự có ích lợi gì. Ông tự hỏi: “Nếu số phận của họ là phải chết thì ta cứu sống họ làm gì? Nếu nghề thầy thuốc của ta là hữu ích thì tại sao ta không cứu được họ?” Một ngày nọ, ông bỏ đi một mình lên núi theo học đạo với một vị thiền sư, mong tìm một câu trả lời. Sau nhiều năm tu tập, ông xuống núi và trở lại làm lương y cho quân đội. Ông tiếp tục săn sóc, chữa lành cho những binh sĩ bị thương, để rồi lại nhìn họ ra trận, bị thương hoặc tử trận. Nhưng ông vẫn cứ vui vẻ với việc làm của mình. Nếu có ai thắc mắc hỏi ông, ông chỉ giản dị trả lời: “Vì tôi là một lương y!” Thế thôi. Đâu còn một câu trả lời nào chân thật hơn, phải không bạn?

Bây giờ là đầu mùa thu. Chúng tôi ngồi yên nhìn mây trôi với lá. Trời mùa thu ướt lạnh. Bạn hãy thở để làm ấm hiện hữu nhiệm mầu. “Em nhìn xem: chỉ một hơi thở nhẹ của hồn tôi thôi, cũng đủ gọi về lửa đỏ...” Mùa thu về với chiếc lá màu đỏ thẫm trong tay bé Khánh Như. Nó lăng xăng chạy khắp sân chọn lựa những chiếc lá đủ màu. Được nhìn một đồi núi rừng cây chín lá mùa thu, có ai còn tìm được một ý nghĩa nào khác chân thật hơn nữa đâu bạn nhỉ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28165)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6665)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8774)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9282)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15362)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8235)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8664)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16686)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26921)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18626)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15610)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22493)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19414)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18291)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16164)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25580)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12853)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37839)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20066)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10697)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10014)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10537)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10360)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11019)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15179)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10829)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19651)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11680)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10757)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11220)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10093)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10550)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11531)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10871)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11384)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12132)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11032)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 12989)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17742)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15181)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15658)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10969)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12084)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11023)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21793)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12072)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9164)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20152)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17229)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10063)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant