Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Những dân tộc lạ lùng

19 Tháng Ba 201100:00(Xem: 5163)
6. Những dân tộc lạ lùng

VĂN MiNH NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

Những dân tộc lạ lùng

Ngài Huyền Trang ra đi, phải qua một con sông rộng, nhưng đường sá không lấy gì làm khó lắm. Cả vùng này thuộc về người Thổ miền Tây kiểm soát, thường có tuần tra canh phòng luôn luôn. Nhưng bởi đường quá dài, nhiều khoảng vắng, nên việc tuần phòng dầu kỹ lưỡng, quân gian ác cũng dễ hoành hành. Chúng hay đón người giật của, kéo nhau đi cả đoàn rất đông, có đủ khí gới, cung tên. Ngài đi được hai ngày, gặp một bọn cướp đến hai ngàn người Thổ. Chúng mới vừa thâu đoạt tiền củavật dụng của một tốp bộ hành. Song vì phân chia không đồng mà chúng xung đột, đánh đập nhau rồi giải tán. Việc cướp bóc ở giữa nơi đồng vắng, trên đường lữ hành... vốn là những tấn tuồng tự cổ chí kim thường diễn ra trên những cánh đồng rộng, những vùng núi cao ở Á Châu này...

Ra khỏi miền đồng bằng, bây giờ dần dần lên vùng núi cao, hai bên triền phủ đầy những tuyết. Ngài càng đi càng lên cao, đường núi rất dễ ghê sợ. Ngài Huyền Trang có ghi lại mấy dòng này, có thể cho ta biết được những cảm giác của Ngài khi ấy:

Đến đây, trông ra toàn là một dãy núi bằng tuyết ở về phía Bắc núi Bạch-mễ-nhĩ. Chỗ này rất nguy hiểm và đỉnh núi lướt lên tới tận trời xanh. Có lẽ từ lúc khai thiên lập địa đến nay, tuyết cứ bao phủ luôn luôn mà làm cho núi cao càng thêm cao, chất chồng lên đầy những khối tuyết to lớn lạ thường. Ròng rã quanh năm suốt tháng, dù hạ dù đông, cũng không bao giờ tuyết tan rã. Mênh mông tứ phía, xa đến tận chân trời cũng chỉ là tuyết lẫn với mây. Càng xem kỹ càng thấy tuyết trắng phau. Chỗ cao chỗ thấp không chừng, làm cho người đi phải đi lên đi xuống, lại phải đi quanh đi vòng, rất lấy làm khổ. Lại thêm một nỗi, gió mạnh như bão táp, đưa đến ném vào mặt những khối tuyết như cả tảng đá bay. Dù là giày là vớ, với áo trùm bằng lông năm bảy chiếc, cũng không khỏi phải lạnh run lên được. Cho đến muốn ăn, muốn ngủ, cũng chẳng kiếm ra được chỗ nào. Thôi thì cứ nấu đồ trên không mà ăn và trải chiếu trên tuyết mà nghỉ.

Trong chuyến qua núi Thiên sơn ấy, Ngài phải mất đến mười bốn người trong đoàn, chết vì giá rét. Chưa kể số ngựa, bò trong đoàn lăn ra chết cũng nhiều.

Qua khỏi triền núi phía Bắc, Ngài đi dọc theo ven một con sông, chẳng bao lâu đến một cái biển hồ. Nước trong hồ này ấm áp quanh năm, không bao giờ đông lại như các nơi. Biển hồ này gọi là Thanh Hải, chu vi chừng hơn một ngàn lý. Theo chiều Đông Tây lại có phần rộng hơn chiều Nam Bắc. Bốn phía đều có núi non bao phủ và rất nhiều sông suối đổ ra hồ này. Xem nước có màu xanh và đen, còn nếm thì vị mặn và chát. Khi thì sóng chạy đùa thành những cụm rất dài, khi lại trồi sụp coi rất ghê sợ. Nước chỗ này nóng và dọc theo bờ thì ấm áp. Vì vậy nên đến mùa đông, những ông hoàng Thổ thường đến nơi đây tránh lạnh. Ngài đi vòng lên phía Bắc. Đến gần thành Souei-ye thì gặp vua nước Thổ miền Tây đang ngự đi săn.

Bấy giờ là đầu năm 630. Lúc đó nước này đang cường thịnh đến cực điểm, ưa thích việc binh đao. Trong khoảng ngoài một trăm năm, từ đầu thế kỷ thứ sáu đến thế kỷ thứ bảy, họ hăng say tung hoành ở giữa cõi Á Châu, tóm thâu những nước nhỏ ở gần và kết tình liên bang với mấy nước mạnh như Ba-tư và Byzance. Dân cư xứ này thời ấy sống tụ tập thành nhiều bộ lạc, ưa thích việc gây gỗ, tranh chiến, cho nên thừa khi thế mạnh, họ bèn kéo đi đánh và cướp giật đát đai, tiền bạc của những dân quanh vùng. Nhưng họ cũng biết sợ quả báo tội phước, nên lại trọng đạo đức nhà Phật lắm. Vào năm 580, vua xứ này tu theo Phật giáohọc đạo với một vị cao tăng. Kế đến đời vua này là Tong-Che-Hou, gặp Ngài Huyền Trang thì vua lấy làm kính trọng lắm.

Sử nhà Đường cũng có chép rằng Tong-Che-Hou là một vị vua oai dũng. Tuy làm chúa một dân tộc du mục mà giang san rộng rãi mênh mông, cơ nghiệp hùng mạnh lắm. Nơi biên thùy, một phía mở ra giáp với Ba-tư, một phía lan rộng đến tận Trung Hoa, thành một vị đại đế thống nhiếp nhiều nước. Vua là một người chinh chiến nhanh nhẹn, can đảm, binh pháp thông thạo. Vua biết thừa lúc những nước lớn đang tranh giành nhau dữ dội, mà chiếm đoạt và đuổi xua những nước nhỏ làm cho cơ nghiệp càng mở rộng thêm, chạy dài xuống tận xứ Càn-đà-la. Mỗi nơi vua đều có đặt người trong dòng họ mình trấn thủngăn ngừa việc binh tình ở bên ngoài. Bấy giờ, vua nghiễm nhiên là một vị đại đế cường thịnh, chung quanh là các nước chư hầu giữ lễ bề tôi và dâng nộp cống phẩm. Với mấy nước yếu, vua tha hồ lấn hiếp và bóc lột, nhưng với những nước mạnh thì vua lại biết cách xử trí rất khéo léo. Như đối với Trung nguyên, đời nhà Đường, vua giao thiệp thân mật lắm. Vào năm 620, nhằm đời Đường Cao Tổ, vua Thổ có phái sứ qua Trung Hoa, hỏi cưới một vị công chúa, và đến năm 627, nhân Đường Thái Tông lên ngôi, vua ấy đi lễ cho hoàng đế Trung Quốc một sợi dây ngọc đái nhận cả muôn hạt thủy xoàn với năm ngàn con ngựa. Lúc ấy, vua Thái Tông phải lo dẹp giặc Mông-cổ, định nên hòa hiệp với nước xa mà đánh những nước gần. Vì vậy rất sẵn lòng giao thiệp. Tuy vua Thái Tông không gã công chúa, nhưng cũng giữ tình lân bang rất đậm đà và coi vua nước Thổ miền Tây như một người bạn trung thành vậy.

Ngài Huyền Trangnhận xét về binh pháp của họ như thế này:

Quân mã của họ đông đảo vô cùng. Vị chúa thượng xem rất oai nghi, mình mặc áo gấm xanh, đầu không đội mão, thả tóc thòng xuống, nhưng chỗ trán có nịt bằng lụa và giắt mối rớt xuống về phía sau. Chung quanh là hai trăm vị quan võ, mặc toàn áo đẹp trang trí bằng lông chim và cả thảy đều để tóc dài. Còn bao nhiêu binh tướng đều là những người thông thạo việc cưỡi ngựa cầm thương, mặc áo lông, nai nịt hẳn hòi, có đủ khí giới, cung tên. Quân binh đầy đặc, số không tính xiết, sắp thành hàng ngũ trông đến mút tầm mắt.

Ngài tả về binh tướng và vua chúa của họ, rõ ràng là một dân tộc dã man, bạo ngược, chưa có nề nết thuần, chỉ giỏi trong việc chiến chinh thôi. Họ chuyên về sự chiếm đoạt, cho nên muốn chiếm lấy nước nào thì liền động binh. Họ cứ xâm lấn và đánh phá mãi, nên chẳng bao lâu mà cơ nghiệp họ rộng rãi, phú cường, trở thành một nước có thế lực nhất nhì ở Á châu. Binh pháp của họ cũng tiến bộ mãi, vào lúc ngài Huyền Trang đến đó là đã lên đến cực điểm rồi.

Nhưng là một dân tộc cốt trọng việc lên ngựa cầm thương, ngoài ra không biết gì nữa. Văn học, khoa học, luân lý, đạo nghĩa họ đều không rành. Binh đội tuy mạnh mà phong tục vẫn dã man. Dầu cho họ bạo phát thì lại bạo tàn. Một phen suy tàn, họ sẽ ngã rất đau, nào có chút tinh thần gì để gìn giữ lại. Mấy năm về sau, họ bị binh tướng nhà Đường đánh phá rất nguy. Vua Thái Tông thâu lại cho Trung Hoa một phần đất rộng dưới quyền họ. Rồi chẳng bao lâu sau, họ tan rã hết.

Tuy họ không có phong tục vững vàng, nhưng cũng mộ đạo lắm. Mấy năm trước, nhà vua có rước một vị cao tăng tên là Prabh Karamita. Vua lấy làm thích ýkính trọng lắm. Mỗi khi có việc quan hệ đều đến hỏi ý kiến. Vị cao tăng ấy và mười nhà đại đức ở dạy đạo cho vua Thổ và bá quan, cho đến năm 626 thì sang truyền đạo bên Trung Hoa. Các vị ấy đi được bốn năm, ngài Huyền Trang mới lại. Vua trọng đãi Ngài và vẫn còn nhắc nhở đến đức hạnh của vị cao tăng kia.

Vua gặp Ngài đang lúc đi săn, khi mãn cuộc săn bèn thỉnh Ngài về thành Tokmak. Vua ngự trong một lều trại to lớn lợp bằng nỉ tốt, có kết tụi treo bông bằng vàng. Các quan ngồi hai hàng trên chiếu, mặc toàn đồ chiến trận. Phía sau có binh tướng hộ vệ đứng hầu. Tuy là chúa của một dân tộc du mục, nhưng xem ra cũng oai nghi lẫm liệt lắm.

Vua với triều thần đương lúc ngồi trên các nước chư hầu, bờ cõi xa đến tít mù, đều lấy làm khoái chí, cùng nhau bày chuyện vui mừng, hết đi săn bắn thì đến những tiệc rượu ê hề. Trong khi ăn thịt ngon uống rượu nồng, lại có âm nhạc trỗi lên làm cho người ta càng dễ bề mê mệt.

Vua khiến quân dọn cơm chay đãi Ngài, đồ ăn khéo nấu, với bánh trái rất nhiều. Một bên là vua ngồi ăn yến với các sứ giả ngoại quốc và đầu mục các đoàn, một bên là Ngài dùng đồ chay. Vua rất quan tâm đến Ngài. Khi mãn tiệc, vua thỉnh Ngài giảng đạo. Bấy giờ giữa các sứ giả, đầu mục, các vị vương tử, giữa triều đình nước Thổ miền Tây, trước mặt vua Tong-che-hou, Ngài thuyết giảng những lý cốt yếu của đạo Phật. Ngài giảng về giáo lý từ bi đối với mọi sinh vật, giảng về những phương pháp để thoát khỏi sự ngu sigiải thoát hoàn toàn. Ngài thuyết pháp xong, vua quỳ xuống đất và lấy làm hoan hỷ mà thưa rằng mình rất thành tâmthọ giáo.

Bấy giờ đã nhận ra Ngài là là một bậc danh sư, vua rất kính trọng. Và lại cũng như vua Cao-xương, muốn cầm Ngài ở lại triều mà phong quyền tước. Vua muốn làm cho Ngài ngã lòng nên phán rằng: Bạch Đại Đức, Ngài không nên qua Thiên Trúc. Đó là một xứ nóng nực khó chịu lắm, cho đến mùa đông trời cũng nóng như mùa hạ. Nếu Ngài đi, chưa qua đến đó, tôi e mặt mày Ngài sẽ cháy nám hết đi. Dân ở xứ đó đen đủi, phần đông kéo đi trần truồng coi ra thô tục lắm. Ngài đến đó mà làm gì, chẳng đáng công đâu.

Ngài Huyền Trang đáp rằng: Bệ hạ thương mà phán như vậy, song bần tăng đã nhất định đi tìm đạo lý, viếng dấu tích cũ và lần theo gót chân Phật tổ ngày xưa.

Vua không ép được, đành phải nghe theo. Bèn khiến quan viết sắc điệp giới thiệu mà giao cho Ngài. Đến các nước chư hầu, Ngài cứ trình ra, mấy ông hoàng sẽ trọng đãi lắm. Và vua có phái sứ đưa Ngài đi đến tận xứ Ca-bì-sa. Ngài nhờ lòng quảng đại và sức hộ trợ của bậc đại đế ấy nên đến đâu cũng được dễ dàng.

Nhưng Ngài đi rồi, ngay trong năm ấy vua bị ám sát chết. Vua vừa chết thì mười bộ lạc đều giải tán, binh lính tan rã hết. Chẳng bao lâu, công nghiệp đồ sộ kia tan tành như mấy dãy đền đài gặp khi long trời lở đất. Một phen tan rã, họ không còn để lại dấu vết gì trên hoàn cầu này nữa...

Ngài Huyền Trang nhắm hướng Tây đi tới. Qua khỏi một hòn núi lớn, Ngài đến một chỗ rất lạ, có chín con sông giáp lại thành ra một mối. Vùng đất này vuông vức chừng hai trăm dặm. Phía nam là những đỉnh núi tuyết, ba phía còn lại đều giáp với đồng bằng. Chỗ này có đủ nước nên đất đai phì nhiêu tươi tốt, cây trái bông lá sum suê. Qua cuối mùa xuân, hoa rụng đầy trên đất như những bức tranh thêu. Người ta cũng gọi chỗ này là Bing-yul, có nghĩa là Một ngàn dòng suối, vì nơi đây kênh rạch và ao hồ rất nhiều. Vùng này khí hậu mát mẻ, nên vua nước Thổ miền Tây thường đến để tránh nóng vào mùa hạ. Lại khắp nơi đều có nhiều nai, mỗi con đều có đeo lục lạc, khi chạy phát ra âm thanh nghe loảng xoảng. Nai quen với người, cứ chạy chơi chỗ này đến chỗ kia, không sợ chút nào. Vua ở đây ưa nai lắm, thích nuôi để coi chơi và có ra lệnh không cho ai giết hại. Ai trái lệnh thì bị xử trảm. Nhờ vậy, nên nai trong vùng được thong dong, tha hồ ăn chơi không bị giết hại.

Ngài qua khỏi sông Talas, đến một thành phố cùng tên với con sông này. Rồi Ngài theo hướng Tây mà đi đến một xứ có danh tiếng gọi là Tát-mã-nhĩ-hãn. Ngài phải băng qua một sa mạc mênh mông, cát màu đỏ ối. Sa mạc này thật đáng ghê sợ, không nước, không cây cỏ, mút tầm mắt chỉ toàn là cát với cát, không thể ước độ được đường còn bao xa. Ngài phải trông về hướng xa, theo mấy đỉnh núi, cùng dựa vào dăm ba bộ hài cốt của bộ hành chết khát để lần đường mà đi. Vượt qua đến chừng 250 cây số, mới đến một con sông gần thành Tát-mã-nhĩ-hãn. Đây là một xứ cổ, vì lúc Ngài Huyền Trang ghé, nhận thấy dân ở đây đã có nền văn minh từ trước khoảng ngàn năm rồi.

Sử nhà Đường còn chép rằng: ... Người xứ Tát-mã-nhĩ-hãn giỏi về thương mãi, trọng việc sanh lợi. Trong mỗi nhà, con cái được hai mươi tuổi thì cha mẹ cho đi làm ăn xa. Và tìm được chỗ nào làm có tiền bạc thì họ đến ở đó...

Lúc Ngài Huyền Trang đến, tình hình thương mãi trong xứ cũng thịnh hành, địa thế rất tốt, vì thương khách Trung Hoa muốn qua xứ Y-lan hay là thương khách xứ Y-lan muốn qua Trung Hoa, đều phải ghé lại đó. Trong xứ này có những phẩm vật tốt ít nơi sánh bằng và quý giá lắm. Đất đai có đủ thứ cây trái đắt tiền nên thu lợi cao.

Người trong xứ thường hay giao thiệp với nước Ba-tư. Phong tục và chữ nghĩa giống bên ấy nhiều phần. Về tôn giáo thì họ tin thờ thần lửa. Tát-mã-nhĩ-hãn đã mấy lần bị xâm lược, nhưng cũng giành lại được chủ quyền. Lúc Ngài Huyền Trang đến, tuy nước ấy được tự trị mà vua phải nạp lễ cống cho vua Thổ miền Tây. Tuy nhiên, tình thế không có gì căng thẳng, vì hai bên còn có quan hệ họ hàng.

Tuy vậy, họ cũng có lòng sợ những nước mạnh, nên vào năm 631, nhà vua có sai sứ sang Trung Hoa xin nhận mình làm một nước chịu sự bảo hộ. Vua Thái Tông thấy xứ Tát-mã-nhĩ-hãn rất xa xôi, cách trở bởi nhiều đồng cát nguy hiểm nên không muốn. Vua phán rằng: Trẫm không muốn tham danh vọng mà làm hại dân. Nếu trẫm nhận bảo hộ nước ấy, thì phải đưa binh đến đó để ngăn ngừa khi giặc giã. Tội nghiệp cho quân lính phải trải qua cả muôn dặm đường, trẫm đâu có nỡ.

Vua Thái Tông tuy không muốn giúp sức mà cũng vui lòng giao thiệp với nước Tát-mã-nhĩ-hãn, thường phái sứ đến đó và cho thương khách hai nước giao thông qua lại với nhau.

Ngài Huyền Trang vào thành Tát-mã-nhĩ-hãn, dường như đến một thế giới khác rồi. Ngài nghĩ rằng, chỗ này ngày xưa có lẽ là một nơi danh tiếng về đạo Phật với nhiều ngôi chùa lớn, nhưng bị ảnh hưởng của nước Ba-tư nên người trong xứ đều bỏ phế Phật giáo. Bởi theo tôn giáo nước Ba-tư, nên từ vua cho đến dân chúng đều không còn tin đạo Phật, chỉ trọng thờ Thần lửa. Khi Ngài đến, vua tiếp rướclễ phép mà trong lòng có sự khinh bạc. Nhưng qua ngày kế, sau khi nghe Ngài thuyết pháp giữa triều đình thì vua lấy làm kính phục lắm.

Vua trọng Ngài, một phần là do tài đức, mà một phần có lẽ cũng là muốn làm vui lòng một nhà cao tăng của ĐườngThái Tông. Bởi vì vua đang có ý muốn nhờ nước Trung Hoa làm chỗ dựa cho khỏi nước Ba-tư và nước Thổ miền Tây áp bức.

Vua liền tiếp trợ cho chuyến đi của Ngài. Trong lúc đó, dân chúng ở đây vì ghét kẻ khác đạo, lại đến phá và đốt nhà trọ của Ngài. Nhưng vua bắt được và trừng phạt nặng nề. Nhờ có Ngài xin giùm, họ mới được giảm tội.

Nước Tát-mã-nhĩ-hãn phồn thịnh về vật chất, nhưng về tinh thần, tín ngưỡng thì lôi thôi. Khi theo đạo này, lúc theo đạo nọ, tùy theo nước mạnh ở gần. Chính nhờ có Ngài Huyền Trang lại, vua và đình thần vừa phục tài thuyết giảng của Ngài, vừa kiêng oai nhà Đường, nên nhiều người đã xin Ngài truyền giới để làm đệ tử Phật. Ngài bèn mời bá tánh lại, lập hội trang nghiêmban hành những điều ước lập giáo hội tăng già, sùng tu những chùa xưa đã hư hỏng, và chấn chỉnh nền Phật giáo trong nước. Sau khi Ngài đi, nước Tát-mã-nhĩ-hãn gầy dựng lại đạo Phật. Vua ra lệnh kiến lập chùa chiền và tìm đón các bậc cao tăng.

Những điều Ngài làm được thật là rất thanh cao, chính đáng. Chẳng những Ngài chịu các điều khổ nhọc trong việc đi đường, giữ theo đạo hạnh của người tu, mà Ngài lại còn giải thoát, cứu vớt được cho những người mê lầm nữa.

Đi đến nhiều nơi, nhờ là dân Trung Hoa nên Ngài được người ta trọng đãi. Nhưng lại nhờ Ngài có tài biện luận, có chí khí cao thượng mà người ta càng kính phục nước Trung Hoa. Như có nhiều xứ còn ngần ngại chưa chịu giao thiệp với nhà Đường, nhưng sau khi có Ngài ghé qua thì họ nhất định phái sứ qua Trường An để ra mắt vua Thái Tông.

Ngài từ giã thành Tát-mã-nhĩ-hãn, bèn đi thẳng theo hướng Nam, đến một hòn núi cũng là nhánh của dãy Bạch-mễ-nhĩ. Đường núi rất hiểm nguy, đầy những hố sâu thăm thẳm. Tuy là núi mà không có cỏ cây, mạch nước. Đi được ba trăm dặm thì đến giữa núi. Chỗ này người ta gọi là Thiết môn quan, nghĩa là cửa sắt, vì hai dãy núi chạy dài song song nhau, ở giữa thành một đường truông chật hẹp, đầy những hố, còn hai bên là đá chất chồng cao đến mây xanh, mà đá thì đen sì như sắt. Thật ra thì trong núi đá này cũng có nhiều mỏ sắt. Đi hết đường, gặp một cái cửa sắt thật, có hai cánh lớn, trên cửa có treo lục lạc bằng sắt. Chỗ này khó đi lắm, người ta cấm nhặt và giữ gìn rất kỹ. Đây là biên thùy phía nam của người Thổ miền Tây. Họ canh giữ và thu thuế trong vùng cũng như những khách buôn ra vào Ấn Độ.

Khi qua khỏi Thiết môn quan, ngoảnh lại phía sau là Trung Á, còn phía trước là cõi Ấn độ mà Ngài đã thấy lố dạng rồi. Bao nhiêu nhọc nhằn tuy đã trải qua, nhưng gần đến xứ Phật còn phải chịu lắm điều cực khổ bội phần hơn nữa. Từ Trường An qua đến cửa sắt, Ngài chỉ khảo cứu về non nước và phong tục của người, mắt thấy tai nghe lắm việc lạ hơn ở quê nhà. Nhưng về phần đạo pháp, Ngài chưa nghiên cứu được bao nhiêu. Những xứ Ngài đã trải qua rồi đều chỉ có phần văn minh vật chất, còn về tôn giáo thì hầu hết là sơ sài lắm. Phần nhiều là những dân tộc bạo ngược nương theo thời thế mà dựng nên cơ nghiệp, chứ không phải những bậc tri thức anh hùng. Họ mới vừa tạo lập đất nước, có mấy khi đã nghĩ đến phần đạo đức đâu...

Đến đây thì Ngài sắp gặp được những bậc cao tăng để mà luận đạo, sắp thấy được những dấu tích của Phật tổ ngày xưa, lại sắp được viếng nhiều ngôi chùa cổ xưa danh tiếng. Nhưng trước khi nhận hưởng được những gì mà từ lúc bước chân ra đi Ngài đã từng mong mỏi, chừng như Ngài còn phải chịu đựng những thử thách nhiều phen gay cấn nữa. Bấy giờ thì cửa từ bi mới mở ra trọn vẹn cho người rộng đường bước tới, tha hồ tiếp lấy phần đạo đức thanh cao.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17394)
Trời tu viện rộng và đẹp, sáng nay mây ngoài biển đã kéo vào chưa? Thôi, xin mời thầy hãy vào cốc Trăng Lên, nhóm lửa và thêm chút củi vào cho ấm... Nguyễn Duy Nhiên
(Xem: 46486)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 9598)
Ghi chép lại những bài giảng của Chư Tôn Đức cho các Huynh trưởng và Đoàn sinh GĐPTVN... Tâm Minh Vương Thúy Nga
(Xem: 8789)
“Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt, Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”... Thích Chân Tính
(Xem: 15895)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15534)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 18317)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9639)
Mỗi trang sách là một lời nhắn nhủ, ta như đang nghe giọng nói nhẹ nhàng, dí dỏm của Thầy: Các bạn cứ nhìn lại xem, tình thươngtuệ giác của Bụt ở ngay trong lòng của bạn.
(Xem: 9698)
Tập truyện Thường Ðề Bồ Tát (Bồ Tát Hay Khóc) được trích dịch trong cuốn “Vô Thanh Thoại Tập” của Pháp sư Long Căn... TT Thích Chân Tính biên dịch
(Xem: 18490)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 15696)
Khánh Hòa là xứ Trầm Hương, Non cao biển rộng người thương đi về... Quách Tấn
(Xem: 10974)
Bản thảo của tập tiểu luận này đã được viết xong từ mùa hè năm 1974, nhưng chưa kịp in thì biến cố 30.4.1975 xảy ra... Hạnh Cơ
(Xem: 8961)
Kinh ThiKinh Dịch như đôi cánh của con chim nhạn mang chở định mệnh lịch sử của Trung Hoa bay lượn suốt mấy mươi thế kỷ trên vòm trời Viễn Đông... Tuệ Sỹ
(Xem: 10464)
Hương Vị Của Đất - Văn Lang Dị Sử - HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 10227)
Tập sách “Hồ Sơ Mật 1963 - Từ các nguồn Tài liệu của Chính phủ Mỹ”... Nhóm Thiện Pháp thực hiện, Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức Publications 2013
(Xem: 9390)
Không và Có tương quan mật thiết với nhau như bóng với hình. Có bao nhiêu cái có thì cũng có bấy nhiêu cái không... Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 11534)
Hương Lúa Chùa Quê là tập sách Hoài Niệm về Tuổi Thơ của hai anh em là HT Thích Bảo Lạc ở Úc Châu và HT Thích Như Điển ở Âu Châu
(Xem: 10108)
Hoà Thượng vào bậc Cao Tăng nổi tiếng hiện nay rằng: “Được học và hành theo Phật pháp là một sự hưởng thụ tối cao nhất trong tất cả mọi sự hưởng thụ trên thế gian…” Quảng Huy
(Xem: 23051)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 9611)
Đạo Phật thường nói về nhân quả, luân hồi, tái sanh nhưng lại bác bỏ khái niệm linh hồn của các tôn giáo hữu thần. Vậy thì cái gì tái sanh luân hồi để lãnh lấy nhân quả... Alexander Berzin; Tuệ Uyển
(Xem: 17269)
Tuyển tập những bài viết cho mẹ, cụ bà Nguyễn Thị Sáu của Hư Thân Huỳnh Trung Chánh
(Xem: 16671)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 19089)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 10211)
Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này.
(Xem: 19434)
Lão tửtriết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo... Nguyễn Hiến Lê dịch
(Xem: 9462)
Trên căn bản của thực tại, hạnh phúc bao giờ cũng cưu mang trong chính nó một sức sống tràn đầy sinh lực của cảm xúc an bình được sinh khởi từ bản thể của nội tâm... Khải Thiên
(Xem: 12313)
Quyển Liễu Phàm Tứ Huấn là sách khuyến dạy tu thiện, giúp xây dựng lại và củng cố nền tảng căn bản làm người: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí ,Tín... Ấn Quang Đại Sư; Tuệ Châu Bùi Dư Long dịch
(Xem: 12003)
CUỐN TỰ ĐIỂN HÁN - VIỆT THẾ KỶ 19; Việt Nam thời xưa có các sách khải mông hay tự biểu được dùng để dạy chữ Hán cho trẻ đồng ấu... Nguyễn Đình Hòa - Trần Trọng Dương dịch
(Xem: 19802)
Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhân quả, Tứ diệu đế, Từ bi, Chữ Hòa, Yếu tố hòa bình... HT Thích Thiện Hoa
(Xem: 12732)
Hạnh Phúc Là Điều Có Thật - Tác giả Nguyễn Minh Tiến (Nguyên Minh)
(Xem: 13158)
Sống Một Đời Vui - The Joy Of Living; Nguyên tác Yongey Mingyur Rinpoche, Diệu Hạnh Giao Trinh & Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 14392)
Muốn sáng lại ánh sáng sẵn có, muốn sống lại lẽ sống như thực, Thái-Hư Đại-Sư thâu tóm tinh-hoa Phật-học thành cuốn sách nhỏ nầy... HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32428)
Vào ngày trăng tròn tháng năm năm 623 trước Tây lịch, một hoàng tử thuộc bộ tộc Thích Ca (1) của Ấn Ðô, tên là Tất Ðạt Ða (Siddhattha) họ Cồ Ðàm (Gotama) đã ra đời... HT Thích Trí Chơn
(Xem: 13049)
Đạo Phật đã chung sống với người dân Việt gần hai mươi thế kỷ, sợi dây liên lạc đã thắt chặt đạo Phật với dân tộc Việt Nam thành một khối bất khả phân ly... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 11978)
Từ Chánh Niệm Đến Giác Ngộ là cẩm nang của người tu Thiền. Nguyên tác Mindfulness, Bliss and Beyond của Ajahn Brahm; Nguyên Nhật Trần Như Mai dịch
(Xem: 20898)
Phật giáo Huế là cái nôi của sự giữ gìn truyền thống thống nhất Phật giáo trong cả nước... Thích Hải Ấn
(Xem: 40670)
Theo đạo Phật, luật nhân quả không chỉ giới hạn trong một đời sống hiện tại này, mà là một quy luật chi phối trong suốt dòng thời gian...
(Xem: 10121)
Những Chuyện Nhân Quả - Nguyên tác: Thích Hải Đảo, Đạo Quang dịch
(Xem: 9585)
Chú Tiểu Ngắm Sen là tuyển tập các truyện ngắn của tác giả Ngô Khắc Tài
(Xem: 19023)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
(Xem: 8866)
Chánh Niệm - Bhante Henepola Gunaratana; Mindfulness in Plain English; Lương Thanh Bình dịch
(Xem: 8353)
Tập truyện dài 2 tập của Vĩnh Hảo - CHIÊU HÀ xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1997
(Xem: 10482)
Đức Phật đến trong cuộc đời là một con người bằng xương bằng thịt, vui những nỗi vui của trần gian, đau những nỗi đau của con người. Để từ đó Ngài vươn lên và vực dậy giấc trường mộng Nam Kha... HT Thích Nhật Quang
(Xem: 11713)
Lược Sử Phật GiáoHồi Giáo Tại Afghanistan - Nguyên tác: Alexander Berzin, Người dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 30673)
Sự khai triển của Phật giáo Đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 11527)
Tổng Tập Văn Học Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại Sưu Khảo gồm có 2 tập do Chư Tôn Đức Tăng Ni và Chư vị thân hào nhân sỹ Phật giáo góp bài để tập thành... Nhiều Tác Giả
(Xem: 10480)
Mở Rộng Cửa Tâm Mình và những mẫu chuyện Phật Giáo nói về Hạnh phúc, Opening The Door Of Your Heart and other Buddhist Tales of Happiness, Nguyên tác: Ajahn Brahm; Chơn Quán Trần Ngọc Lợi dịch
(Xem: 16062)
Phật giáo được truyền đến Sri Lanka từ thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Và phần lớn thời gian trong suốt hơn 2.000 năm, Phật giáo được xem quốc giáo tại đảo quốc này... Thích Nguyên Lộc
(Xem: 25696)
“Tuệ Sỹ Đạo Sư - Thơ và Phương Trời Mộng” là tên của một quyển sách, do thầy Phạm Công Thiện đặt cho. Bây giờ Thầy đã lên tới đỉnh cao, bỏ lại sau lưng là hố thẳm... Nguyên Siêu
(Xem: 10060)
Đây là câu chuyện được phóng tác từ nhân vật Phật giáo có thật trong lịch sử cận đại, thời nhà Nguyễn gầy dựng đế nghiệp ở kinh đô Huế từ nửa đầu thập niêm 80 của thế kỷ 18.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant