Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 6: Sinh hoạt ở các tỉnh của Tây Tạng

20 Tháng Ba 201100:00(Xem: 6279)
Chương 6: Sinh hoạt ở các tỉnh của Tây Tạng

DU LỊCH XỨ PHẬT
Tác giả: Montgomery Mc. Govern, Đoàn Trung Còn dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

Chương 6: Sinh hoạt ở các tỉnh của Tây Tạng

Nước Tây Tạng chia ra năm mươi ba tỉnh, mỗi tỉnh có một viên quan cai trị, thường ở trong một cái lâu đài to lớn cất trên cao, dựa theo triền núi, nhìn ngay xuống chợ búa của dân gian, chung quanh là đồng bằng. Lâu đài xây cất cũng uy nghi tráng lệ lắm, tuy chịu không nổi với súng đại bác hiện đại, chớ cung tên và súng thường khó mà phá được. Người ta xây cất lâu đài uy nghi, chẳng những là để phòng ngừa những khi binh biến, mà còn để làm cho dân gian kính sợ phục tùng nữa.

Phía trong nhơ nhớp tối tăm, chứ nhìn bề ngoài thì đẹp lắm. Trông thấy phải nhận là mỹ thuật khéo léo tài tình, nhưng không hợp với trình độ thấp kém, lạc hậu của dân chúng xứ Tây Tạng.

Vào khi thua trận năm 1940, hai thành Gyangtsé và Pari bị phá nát. Và khi ký hòa ước, người ta cấm không cho dựng lại hai cái lâu đài ở các tỉnh thành ấy. Nhưng ít lâu sau, chính phủ Tây Tạng cũng cất lại to lớn như xưa. Và chính phủ Anh không thể nào ngăn cản được, nên Tây Tạng dần dần xây cất lại tất cả các đền đài. Sự đặc biệt đáng chú ý về hành chính là: mỗi tỉnh đều có hai viên quan cai trị, một người về thuộc giới tu sĩ, một người là cư sĩ. Không cần nói ai cũng biết là vị tu sĩquyền thế hơn, lại nhờ có học thức hơn, nên chịu trách nhiệm về thư từ và tin tức trực tiếp với cấp trên. Còn viên quan cư sĩ kia thì lo về những việc thông thường. Lương bổng của quan chức không được dồi dào lắm, nhưng họ vẫn làm giàu rất nhanh! Thông thường, mỗi vị nhận một địa phương là năm năm, nhưng cũng có khi chưa đúng kỳ đã đổi đi hoặc quá kỳ mà còn ở lại. Chính phủ thường thuyên chuyển quan lại từ tỉnh này sang tỉnh kia, vì sợ để ở một chỗ quá lâu rồi họ không phục tùng chính phủ trung ương. Các quan địa phương có đủ quyền hành như vua một nước nhỏ, mỗi năm cống hiến về kinh một lần, phần lớn là nộp bằng bơ, lúa, lông cừu.

Việc sinh hoạt trong mỗi tỉnh không lấy làm phiền phức. Lại về mùa đông thì không có thú gì vui, người nào có việc cần phải đi lại Shigatsé và Lhassa mới hưởng được nhiều cuộc giải trí. Tôi có biết một viên quan vẫn ở tại kinh, không hay về tỉnh, giao phó công việc cho người thay mặt mình, còn mình thì hưởng sự sung sướng sang trọng ở kinh đô.

Tôi xem đền đài và cảnh vật đã chán, mới nằm ngủ lại. Nhưng ngủ không lâu, vì phải dè dặt. Tôi bèn ra khỏi thành trước cùng với La-ten, để mấy người kia lo sắp đặt hành lý và trả tiền rồi theo sau. Trời trong, bóng hồng đã chói trên các đỉnh núi Hy-mã-lạp-sơn. Phong cảnh đẹp như ghi vào ký ức, không thể nào quên. Tôi ngừng lại mà ngắm cái tuyệt hảo của tạo hóa! Tôi đang đứng trước cảnh quang đãng, chung quanh là các hòn núi cao, có cả ngọn Everest là cao nhất trên thế giới.

Đất cát ở đây phì nhiêu lắm, nhưng thời tiết thì khắc nghiệt. Phần thì hay giông bão, phần thì nắng gắt, nên không dễ có được mùa màng. Ở Ấn Độ, một cánh đồng bằng như vầy có biết bao là người với vật, còn ở đây thì phóng mắt tận bốn phương trời không thấy một đám ruộng, một cái nhà, hoặc một sinh vật nào.

Khỏi thành Kampa-Dzong đã xa, tới một chỗ đường rẽ làm ba, tôi bèn dừng lại đợi mấy người kia. Chờ không lâu, giây lát họ kéo tới, Sa-tăn cưỡi ngựa đi đầu. Nhưng tôi lấy làm ngạc nhiên vì không phải anh đi với hai người kia, mà là đến bốn người! Anh ta nói với tôi rằng, vừa thuê thêm hai người phu để vác đồ.

Tôi nghe xong, chết sửng. Tôi mới biết hốt hoảng lần này là lần đầu từ hôm ra đi. Tôi liền rầy la anh chàng thật nghiêm khắc, và nói thẳng rằng trong đời hẳn không còn ai ngu dại hơn anh nữa. Tôi đã dè dặt đủ mọi cách để người khác đừng chú ý, mà anh ta còn thuê thêm hai người cho lớn chuyện. Đây rồi còn phải nhọc lòng hơn mỗi khi ngừng nghỉ ở các làng. Đành rằng mấy con la đang phải chở nặng lắm, nhưng thà bỏ bớt đi một phần hành lý còn hơn là thuê thêm hai người để khuân đồ.

Tôi muốn bảo thôi, nhưng không có cớ. Nếu đuổi họ liền thì họ nghi ngờ, vì họ thấy sao mướn có vài giờ lại thôi, và thấy sao đầy tớ hèn mạt mà lại dám cãi với ông chủ nhà giàu, e họ sanh nghi.

Tôi bảo với Sa-tăn phải giải thích với họ rằng định thuê họ là vì tưởng hai người phụ việc (chỉ La-ten và tôi) còn bị bệnh, nhưng giờ đây nhờ ăn được và đã nghỉ ngơi trọn đêm nên khỏe lại rồi, vậy không cần người theo khuân đồ nữa, sẽ trả tiền cho họ đủ trọn ngày. Sa-tăn muốn cãi lẫy lỗ mãng với tôi, nhưng rồi thấy tôi giận dữ không dằng được, lại thấy tay tôi chụp ngọn dao trong lưng nên phải buộc lòng nghe theo. Sau cùng thì mọi chuyện cũng được dàn xếp yên ổn, mọi người cùng nhau tiếp tục cuộc hành trình.

Buổi cãi lẫy hôm ấy làm cho về sau có chuyện lôi thôi. Tôi quở trách Sa-tăn nhiều tiếng nặng nề, hắn ta nghe tức lắm, nên căm giận mãi và thành ra đối nghịch với tôi luôn. Hắn còn theo tôi là vì tham tiền, và muốn tới kinh đô để chơi cho biết. Nhưng hắn sẽ tìm cơ hội để làm nhục tôi rửa hờn. Cũng may là những người kia không ai ưa hắn, vì bị hắn hiếp đáp và hành hạ luôn.

Đi vòng, theo nhiều dãy núi nhỏ, đến một chỗ nhiều làng xóm có vẻ sung túc. Chúng tôi dừng lại hỏi thăm đường. Người ta sẵn lòng chỉ và họ cũng không tò mò, nghi ngờ chi cả. Tôi đã được vững lòng về sự giả dạng của tôi rồi. Chỉ còn lo ngại về đường xa xôi và về thái độ của Sa-tăn mà thôi. Chúng tôi không nghỉ trong làng, cùng nhau dựng trại theo ven một con mương giữa trời.

Nước đóng băng thành lớp không dày lắm, tôi lấy đó làm nước uống. Còn mấy người kia lại thích uống rượu mua ở chợ Kampa-Dzong hôm qua. Tôi không uống rượu, ấy là muốn giữ thể diện cho thanh cao. Mình là một người xa lạ dám nghĩ đến việc viếng thăm kinh đô nghiêm cấm, cần phải làm cho bọn này kính phục. Cho nên tôi thường nói với họ rằng tôi có phái điệp tu sĩ của giáo hội Tăng già cấp cho, vì tôi có khảo cứu về Phật học. Nhờ tôi nói tôi là người đạo Phật nên bọn ở mới dám nghe theo mà đi.

Theo giới luật, một tu sĩ không bao giờ uống rượu. Tôi đóng hai vai trò đều được hoàn hảo: đối với những người tôi thuê, họ nghĩ tôi là một tu sĩ, còn trước mắt người ngoài thì tôi là một thằng người làm thuê theo đoàn.

Sa-tăn cũng là một tu sĩ, nhưng rượu gì hắn ta cũng uống không chừa.

Buổi sáng lên đường, đi không bao lâu gặp ngã rẽ. Bên trái là đường về Shigatsé, bên phải đến chùa Sakya. Chùa này có từ rất lâu đời và đã nổi tiếng từ xưa, nhờ sự sắp đặt bên trong và còn nhờ có một pho kinh sách cổ viết bằng tay.

La-ten có biết chỗ này, anh nói rằng cảnh chùa đẹp lắm. Người ta sơn vách từ trên xuống dưới bằng sọc đen và xanh, còn vách phía trong lại làm bằng đất sét nung màu đỏ nên trông rất lạ lùng.

Nội thành Sakya có bốn ngôi đền cất lên theo kiểu Trung Hoa. Mỗi đền có một vị sư trưởng truyền gia. Vị này có quyền cưới vợ. Hồi trước, chùa Sakya là tư dinh của quan phủ tỉnh. Tôi muốn ghé đó rồi sẽ qua Shigatsé, nhưng nghĩ kỹ rồi không đi. Sợ rằng nếu vắng mặt lâu, ở bên Ấn Độ người ta sẽ nghi tôi đã sang Tây Tạng. Vì vậy, nếu tôi muốn vào kinh thành thì phải đi thật nhanh.

Chúng tôi rẽ qua tay mặt và lên một cái đèo. Chỗ này còn khó đi hơn cái đèo hôm trước. Sa-tăn dẫu đang đóng vai ông chủ, nhưng phải xuống ngựa để tiếp sức cho mấy con la. Ba giờ chiều mới lên tới đỉnh đèo. Ở đây có một cái bàn thờ. Tôi lấy một viên đá cúng dường trước bàn thờ và vái lớn tiếng cầu xin đức Phật phò hộ cho được bình yên khi đi đường!

Sau khi qua khỏi một cánh đồng rộng thì đến làng Kuna. Người ta đem chút ít đồ mà bán cho chúng tôi. Dân trong làng là những người sống trôi dạt. Chỗ nào làm ăn được thì họ tới, cùng nhau đùm bọc chở che cho nhau và lo nuôi thú vật mà bán ra ngoài. Họ vẫn không ưa những người ở thị tứ. Thấy bọn tôi cũng là người trôi dạt nên họ có cảm tình. Tôi có mua được sữa để dùng nhưng phải nói với họ rằng trong bọn có người bệnh cần phải uống sữa cho nhiều. Ở Tây Tạng, người ta không ai thích uống sữa. Họ cho rằng sữa cũng như một thứ nước tiểu, chỉ dùng chút ít để làm thuốc mà thôi. Trái lại, họ cho rằng bơ là sạch hơn, nên họ thích dùng bơ để ăn uống và làm dầu đốt đèn.

Bây giờ tôi tính không che trại nữa, vì dùng trại coi giống người phương Tây quá, người ta có thể nghi ngờ. Phải ngủ ngoài trời, những người theo tôi không bằng lòng. Lạnh ghê lắm, tê tái đến cả thể xác lẫn tinh thần. Nhờ có đốt lửa bằng cỏ trộn với phân bò nên cũng đỡ được phần nào, nhưng cả bọn còn phải ôm chặt lấy nhau mà ngủ để được ấm áp hơn.

Mọi người trong nhóm đi ròng rã, thấy buồn lắm. Nhất là Sa-tăn ra vẻ khó chịu hơn ai hết. Mà quả thật, đường đi rất nhọc nhằn. Phần thì trời lạnh, phần đường sá nguy hiểm, lại không được ngừng nghỉ gần xóm làng, bảo sao họ chẳng cứng đầu!

Họ đã toan trở lại. Tôi nói rằng đường sá đã bị tuyết phủ rồi. Họ dần dà lâu mới chịu, nhưng khăng khăng rằng nếu gặp xóm làng thì phải dừng lại nghỉ ngơi. Tôi vẫn biết rằng chậm trễ thời giờ là khó khăn thêm cho chuyến đi của mình, nhưng biết làm thế nào, chẳng lẽ bắt họ phải chịu đói rét mãi ở non cao!

Trong khi đi đường, đôi khi gặp người dừng lại để nói chuyện với bọn tôi. Nhưng nhất là họ thích chuyện trò cùng tôi, vì nghĩ tôi là người tôi tớ hèn mọn nhất trong đám. Họ đâu dám mong trò chuyện với ông chủ Sa-tăn. Ban đầu tôi sợ lắm. Nhưng dần dần về sau, thấy không ai biết tôi giả hình giả dạng, nên mới tha hồ mà chuyện vãn bằng tiếng Tây Tạng, không còn lo ngại chi hết. Cả bọn cho đến bây giờ mới được yên ổn với nhau. Sa-tăn với tôi cũng bớt đối nghịch, và mấy người kia cũng thôi không oán ghét nữa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28192)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6688)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8786)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9313)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15386)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8253)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8684)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16731)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26976)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18678)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15656)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22535)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19458)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18342)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16202)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25632)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12879)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37862)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20091)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10713)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10029)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10558)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10390)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11039)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15227)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10842)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19693)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11702)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10783)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11244)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10106)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10562)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11552)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10892)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11401)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12159)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11061)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13017)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17769)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15233)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15708)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11000)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12105)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11041)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21845)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12097)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9179)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20173)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17258)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10099)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant