Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đại Đường Tây Vức Ký

24 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11675)
Đại Đường Tây Vức Ký

ĐẠI ĐƯỜNG TÂY VỨC KÝ
Pháp sư Huyền Trang

Thích Như Điển dịch

Đại Chánh Tân Tu, Đại Tạng Kinh quyển thứ 51, thuộc Sử Truyện bộ thứ 3, từ trang 867 đến trang 948, gồm 12 quyển, thứ tự kinh văn số 2087, do Ngài Huyền Trang đời nhà Đường dịch, Ngài Biện Cơ soạn lại.
Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác, Đức Quốc, dịch từ tiếng Hán sang tiếng Việt, từ ngày 24 tháng 10 đến ngày 15 tháng 12 năm 2003 D.L., tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi, trong mùa nhập thất, với sự trợ dịch của Tỳ Kheo Thích Đồng Văn và Tỳ Kheo Thích Hạnh Giới.

blank

MỤC LỤC

Lời tựa 
Bài tựa Đại Đường Tam Tạng Thánh Giáo của Vua Đường Thái Tông

Bài tựa thứ nhất Đại Đường Tây Vức Ký

Bài tựa thứ hai Đại Đường Tây Vức Ký

01 - Đại Đường Tây Vức Ký - Quyển thứ nhất 
1. Nước A Kỳ Ni
2. Nước Quật Chi
3. Nước Phạt Lục Già
4. Nước Xích Kiến
5. Nước Giã Thời
6. Nước Phế Hãn
7. Nước Tốt Đỗ Lợi Sắc Na
8. Nước Phong Mạc Kiến
9. Nước Nhi Chư Hạ
10. Nước Kiếp Bố Xương Na
11. Nước Quật Tương Nhi Ca
12. Nước Yết Hãn
13. Nước Bổ Yết 
14. Nước Đại Địa
15. Nước Hóa Lợi Tập Di Dà
16. Nước Yết Tương Na
17. Nước Đãn Mật
18. Nước Diệt Ngạc Hạnh Na
19. Nước Nhẫn Lộ Ma
20. Nước Dụ Mạn
21. Nước Cúc Hòa Hằng Na
22. Nước Hoạch Sa
23. Nước Khả Xuất La
24. Nước Câu Mễ Đã
25. Nước Phược Già Lãng
26. Nước Ngật Lộ Tất Ni Kiến
27. Nước Nhẫn Lẩm
28. Nước Phược Yết
29. Nước Duệ Mạt Da
30. Nước Hồ Thật Kiến
31. Nước Đản Sắc Kiến
32. Nước Yết Thức 
33. Nước Phạm Hành Na
34. Nước Ca Tất Thí 
02 - Đại Đường Tây Vức Ký - Quyển thứ hai

1. Nước Lam Bà
2. Nước Na Yết La Yết
3. Nước Càn Đà La 
03 - Đại Đường Tây Vức Ký - Quyển thứ ba 

1. Nước Ô Trượng Na
2. Nước Bát Lộ La
3. Nước Đản Hựu Thỉ La
4. Nước Tân Ha Bổ La
5. Nước Ô Sách Thi 
6. Nước Ca Thấp Di La.
7. Nước Bán Nô Sai
8. Nước Yết Na Phược Bổ La
04 - Đại Đường Tây Vức Ký - Quyển thứ tư

1. Nước Trách Ca
2. Nước Chí Na Bộc Đệ
3. Nước Phiệt Lan Đạt La
4. Nước Quật Lộ Đa 
5. Nước Thiết Đa Đồ Lô
6. Nước Ba Lý Dạ Đản La
7. Nước Vị Thố La
8. Nước Tát Tha Nễ Thấp Phạt La
9. Nước Tốt Lục Cần Na
10. Nước Châu Đệ Bổ La
11. Nước Bàng La Hấp Ma Phổ La
12. Nước Cù Tỳ Sương Na
13. Nước Ác Ê Chế Đản La
14. Nước Tỳ La Sắc Na
15. Nước Kiếp Tỷ Tha.
05 - Đại Đường Tây Vức Ký - Quyển thứ năm 

1. Nước Yết Nhã Cúc Xà (Kanjakubja)
2. Nước A Du Đà
3. Nước A Dà Mục Khứ
4. Nước Bát La Dà Dà
5. Nước Kiều Thường Di
6. Nước Bi Tác Ca 
06- Đại Đường Tây Vức Ký - Quyển thứ sáu

1. Nước Thất La Phiệt Tất Để
2. Nước Kiết Tỷ La Phạt Tốt Đổ
3. Nước Lam Ma
4. Nước Câu Thi Na Yết La
07 - Đại Đường Tây Vức Ký - Quyển thứ bảy

1. Nước Ba La Nại
2. Nước Chiến Chủ
3. Nước Phệ Xá Phân (Tỳ Xá Ly - Vesali)
4. Nước Phất Phiêu Trì
5. Nước Ni Ba La 
08 - Đại Đường Tây Vức Ký - Quyển thứ tám

Nước Ma Kiệt Đà - Phần một
09 - Đại Đường Tây Vức Ký - Quyển thứ chín

Nước Ma Kiệt Đà - Phần hai
10 - Đại Đường Tây Vức Ký - Quyển thứ mười

1. Nước Y Lan Nõa Bát Phạt Dà
2. Nước Chiêm Ba
3. Nước Yết Châu Ôn Đệ La
4. Nước Bôn Na Phạt Đản Na
5. Nước Ca Ma Lầu Ba
6. Nước Tam Ma Đản Thát
7. Nước Trầm Ma Phiêu Đệ
8. Nước Yết La Noa Tô Phạt Sắc Na
9. Nước Ô Trà
10. Nước Cung Ngự Đà
11. Nước Yết Lăng Già
12. Nước Kiều Tát La
13. Nước Án Đạt La
14. Nước Đà Na Yết Lân Ca
15. Nước Châu Lợi Da 
16. Nước Đạt La Tỳ Trà
17. Nước Chư La Cự Thác
11 - Đại Đường Tây Vức Ký - Quyển thứ mười một

1. Nước Tăng Già La (Tích Lan)
2. Nước Trà Kiến Na Bổ La
3. Nước Ma Ha Sách Trạch
4. Nước Phạt Lục Yết Chiêm Ba
5. Nước Ma Lạp Ba
6. Nước A Thác Lý
7. Nước Khiết Thác 
8. Nước Phạt Lạp Tỳ
9. Nước A Nan Đà Bổ La
10. Nước Tô Sắc Đà
11. Nước Cù Chiết La
12. Nước Ô Phiệt Diễn Na 
13. Nước Trinh Chỉ Đà 
14. Nước Ma Ê Thấp Phạt La Bổ Đa
15. Nước Tín Độ
16. Nước Mậu La Tam Bộ Lô 
17. Nước Bát Phạt Đa
18. Nước A Điểm Ba Sí La
19. Nước Lang Yết La
20. Nước Ba Sắc Tư (Ba Tư)
21. Nước Kiên Đa Thế La 
22. Nước A Quân Trà
23. Nước Phạt Sắc Noa 
12 - Đại Đường Tây Vức Ký - Quyển thứ mười hai

1. Nước Tào Cự Thác
2. Nước Phất Phiêu Trì Tát Quân Na
3. Nước An Đản La Phược
4. Nước Hoạt Tất Đa
5. Nước Hoạt 
6. Nước Tào Kiến
7. Nước A Lợi Ni
8. Nước Yết La Hồ
9. Nước Ngật Phiêu Sắc Ma
10. Nước Bát Lợi Yết
11. Nước Tu Ma Đản La
12. Nước Bát Thích Sán Na
13. Nước Nhâm Bạ Kiến
14. Nước Quật Nãn Noa
15. Nước Đạt Ma Tất Thiết Đế 
16. Nước Thi Khí Ni
17. Nước Thương Di
18. Nước Yết Bàn Đà
19. Nước Ô Sát 
20. Nước Khư Sa
21. Nước Nghiên Cẩu Da 
22. Nước Cù Tác Đản Na

Lời tựa

Quý vị đang cầm trên tay quyển "Đại Đường Tây Vức Ký" được chuyển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt là do kết quả của sự miệt mài dịch thuật của chúng tôi từ ngày 24 tháng 10 năm 2003 đến ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân mùa nhập thất lần đầu tại đây. 

Xin tạ ơn Tam Bảo đã chiếu soi cho chúng con để lần dò từng câu văn, từng ý chữ mà Ngài Huyền Trang, một bậc danh tăng đời Đường đã thể hiện trọn vẹn hết tâm ý khi đi chiêm bái, học hỏi và ghi lại nơi Thánh Địa ròng rã trong 17 năm trời. Để rồi về lại kinh đô Tràng An với 657 bộ kinh bằng chữ Phạn. Ngài trải qua 110 nước và về sau cùng 100 vị Cao Tăng Học giả đương thời, dưới quyền chủ tọa của Ngài, phiên dịch suốt trong vòng 19 năm, kể từ khi Ngài về lại Tràng An Trung Quốc, vào ngày 24 tháng giêng năm 645 (năm Trinh Quán thứ 19 đời nhà Đường). 

Ngài lên đường ra đi khỏi Trung Quốc vào năm Trinh Quán thứ 3 đời nhà Đường tức năm 628, lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Như vậy Ngài sinh vào năm 595 và Ngài thị tịch vào ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Ngài về lại Kinh Đô đúng 50 tuổi và chủ trì phiên dịch trong 19 năm ròng rã như thế và ngày nay Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài Pháp Bảo vô giá mà đông tây kim cổ khó có người thứ hai sánh kịp.

Đây là một tập sách gồm 12 quyển và hai lời tựa được đăng trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 51 thuộc Sử Truyện, bộ thứ 3 từ trang 867 đến trang 948, theo thứ tự kinh văn số 2087. Chỉ có 81 trang kinh mà chúng tôi phải dịch ròng rã gần 2 tháng dài. Mỗi ngày từ 5 đến 6 tiếng đồng hồ và kết quả là hơn 460 trang sách khổ A5 và gồm 127.264 chữ, như quý vị đang đọc. Đại Tạng Kinh không chỉ có một quyển mà cả một trăm quyển như thế. Mỗi quyển dày từ 1000 đến 2000 trang. Nếu một người để cả một đời ra đọc chưa chắc gì đã hết, đừng nói đến vấn đề phiên dịch.

Bây giờ Phật Giáo Việt Nam đã bắt đầu cho phiên dịch nhiều phần từ Kinh, Luật, Luận trong Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt. Trong đó phải nói rằng về phần Kinh Văn, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Huệ Hưng đã đóng góp dịch thuật phần chính. Về Luật Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Hành Trụ, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Hòa Thượng Thích Trí Minh, Hòa Thượng Thích Đổng Minh v.v...Về Luận Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Khánh Anh, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, Cố Hòa Thượng Thích Trung Quán, Cố Hòa Thượng Thích Đức Niệm, Cố Thượng Tọa Thích Viên Đức, Cố Sư Bà Thích Nữ Như Thanh, Cố Sư Bà Thích Nữ Diệu Không v.v... đã đóng góp phần mình không nhỏ cho vấn đề phiên dịch từng loại như thế. Riêng phần Kinh Tạng Pali do Hòa Thượng Thích Minh Châu đã dịch gần xong tất cả Kinh Văn. Phần Luật và Luận do Chư Tôn Đức Trưởng Lão thuộc Phật Giáo Nguyên Thủy phiên dịch. Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh người chủ trương một Đại Tạng Kinh Việt Nam đã đang và sẽ cho Tăng Ni phiên dịch những phần còn lại, rồi san định trước sau để hình thành. Hiện nay Hòa Thượng đã cho xuất bản được 10 bộ. Một bộ Đại Tạng Kinh Việt Nam được hình thành trọn vẹn, chắc phải 200 bộ như thế, mỗi bộ dày chừng 1000 đến 2000 trang.

Riêng bộ "Đại Đường Tây Vức Ký" nầy sở dĩ chúng tôi dịch trước vì nghĩ rằng chính đây là tấm bản đồ đầy đủ nhất, chi ly nhất mà đương thời từ năm 628 đến năm 645 tại Ấn Độ và Trung Hoa chưa có một người nào viết được một bộ Sử Phật Giáo như thế. Đây là kết quả của 17 năm trường mà Ngài Huyền Trang đã ở tại Ấn Độ. Đi đến đâu Ngài cũng ghi lại từ khí hậu, phong thổ cho đến tập quán và nhất là những câu chuyện liên quan đến cuộc đời đức Phật cũng như chư vị Bồ Tát, A La Hán. Số nước mà Ngài đã đi qua là 110, ngày nay chúng ta có thể gọi là những tiểu bang, vì ngày xưa mỗi một vùng có một ông Vua nhỏ, hoặc tù trưởng đứng đầu. Còn ngày nay, Ấn Độ chỉ còn một nước mà thôi. Chung quanh đó có một số nước, ngoài Ấn Độ như Ba Tư, Kasmir, Tân Cương v.v... là những nước lớn ta có thể kể riêng. nhưng tựu chung chỉ đi bộ và dùng voi ngựa mà vượt qua được những chặng đường dài gần 50 ngàn dặm ấy thì quả thật thế gian nầy chỉ có một không hai.

Nhờ bản đồ hành hương của Ngài qua truyện Đại Đường Tây Vức Ký nầy mà những nhà Học giả, những nhà Khảo Cổ Học người Âu Châu mới tìm đến Ấn Độ để xác nhận, tìm kiếm những di tích ấy vào cuối thế kỷ thứ 18 và cho đến nay thì bốn Thánh Địa căn bản của đức Phật từ khi Đản Sinh cho đến khi Thành Đạo, Thuyết Pháp lần đầu tiên và thị tịch Đại Bát Niết Bàn đã rõ ràng. Bây giờ các nhà Khảo Cổ Học người Nhật Bản vẫn còn đang tiếp tục tìm kiếm các di tíchngày xưa cách đây 2547 năm về trước. Tất cả đều nhờ vào công đức của Ngài Huyền Trang đã vẽ cho chúng ta một tấm bản đồ cách đây 1375 năm (2003-628, là năm mà Ngài Huyền Trang 33 tuổi bắt đầu sang Ấn Độ); đây là một tấm bản đồ cũ nhất trong tất cả những tấm bản đồ của thế giới hiện nay.

Đại Đường Tây Vức Ký nầy đã được dịch sang tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Nga; và tiếng Việt hình như đây là bản đầu tiên. Vì cho đến nay, chúng tôi vẫn chưa đọc được một bản nào mô tả tỉ mĩ như thế. Gần đây chúng tôi có đọc được quyển "Đường Tam Tạng Thỉnh Kinh" của nhà văn Võ Đình Cường tái bản lần thứ 3 năm 2000 thì mới biết ngày 7 tháng 5 năm 1960, ông đã cho xuất bản cuốn "Huyền Trang", nhưng lúc ấy tại quê nhà tôi chưa có cơ duyên đọc đến. Căn cứ theo lời tựa lần thứ nhất xuất bản vào năm 1960, được biết rằng nhà văn Võ Đình Cường dùng tài liệu của Học giả Lương Khải Siêu người Trung Hoa soạn và nhờ Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ dịch tài liệu ấy ra tiếng Việt; nhưng phần mình, nhà văn không cho biết ông đã căn cứ vào tài liệu nào để viết. Dĩ nhiên phải có tài liệu chính trong tay, ông mới hoàn thành tác phẩm ấy được. Vì đây là một nhân vật lịch sử chứ không phải Dã sử hoặc Huyền sử, cho nên chúng ta phải làm sáng danh điều nầy.

Nhân nghiên cứu để viết lời tựa cho quyển sách quan trọng nầy, chúng tôi mới thấy bài dịch của lời tựa Vua Đường Thái Tông đã viết vào năm 648 gồm 780 chữ mà Ngài Trí Thủ và Ngài Thiện Siêu đã dịch ra tiếng Việt thật tuyệt vời. Nay chúng tôi xin trích đăng lại cho đủ ba lời tựa cho phần đầu của dịch phẩm nầy.

Trong chương 5, phần XVI về việc phiên dịch Kinh Điển, nhà văn Võ Đình Cường viết như sau:

"Mùa thu năm sau, phụng mệnh Vua Thái Tông, Ngài thuật cho một đệ tửBiện Cơ chép lại cuộc Tây Du của Ngài trong 17 năm trải qua 138 nước một cách tường tận..." 

Ở đây có thể phân tích một vài việc như sau: Có một điều chúng tôi thắc mắc là: "Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch" quyển nầy. Tại sao Ngài phải dịch? Lẽ ra phải nói là Ngài soạn mới đúng. Khi viết lại chắc Ngài phải viết bằng chữ Hán, nghĩa là đi đến đâu ngài chép đến đó. Chứ sau 17 năm về lại Trung Quốc làm sao nhớ hết mà kể lại cho ngài Biện Cơ soạn lại? Và một điều khó hiểu nữa - Không lẽ Ngài viết bằng chữ Phạn? - Chắc chắn là không. Vì tiếng mẹ đẻ của Ngài là tiếng Trung Hoa, khi qua đó Ngài đã 33 tuổi, trong khi tiếng Phạn chưa giỏi thì phải lấy tiếng mẹ đẻ làm chuẩn vậy.

Thứ nữa ở trong Đại Tạng Kinh, Phần tựa thứ nhất cho biết Ngài đã đi 110 nước; trong khi đó ông Võ Đình Cường bảo đi đến 138 nước; và ngay cả trong lời tựa thứ 2 trong Đại Đường Tây Vức Ký của Thượng Thơ Tả Bộc Xạ Yến Quốc Công Trương Thuyết có ghi là: Lời tựa của Tam Tạng Thánh Giáo do Vua Đường Thái Tông viết chỉ có 780 chữ" mà ông Võ đã viết là 781 chữ. Điều đó cũng dễ hiểu thôi vì ông cũng có nhận định rằng: "Ông Lương Khải Siêu bảo rằng Ngài Huyền Trang sang Ấn Độ năm Trinh Quán nguyên niên là sai" và ông đã chứng minh là năm Trinh Quán thứ ba mới đúng. Điều chứng minh nầy của ông Võ đúng với Đại Tạng Kinh

Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) là Đại Tạng Kinh được hoàn thành dưới thời Vua Đại Chánh (Taisho). Vua nầy là con của Vua Minh Trị Thiên Hoàng (Meiji Tenno). Vua Minh Trị đã có công duy tân đất nước Nhật vào năm 1868 cách đây 135 năm (2003-1868) và sau khi Minh Trị Thiên Hoàng băng hà, Vua Đại Chánh lên ngôi. Ông Vua nầy trị vì không lâu; nhưng được một việc dưới thời ông Tam Tạng Kinh Điển bằng chữ Hán đã được sưu tập chỉnh lý và đóng lại thành bộ, để ngày hôm nay tại Trung Hoa, Đại Hàn, Việt Nam, Mỹ Quốc, có cơ hội căn cứ vào đó mà dịch thuật nghiên cứu. Vào thời ấy, năm 1923 đến năm 1933 ( Đại Chánh năm 13 đến năm Chiêu Hòa thứ 7), Vua cho triệu tập 100 Học giả Tăng Sĩ và Cư Sĩ toàn là những vị đỗ Tiến Sĩtrình độ Phật học thâm sâu kết thành bộ Đại Tạng Kinh nầy. 

Chúng ta biết rằng bản Đại Đường Tây Vức Ký nầy y cứ vào bản Đại Đường Tây Vức Ký của Kinh Đô Đế Quốc Đại Học (Kyoto Teikoku Daigakku) soạn ở trang 867 quyển 51. Như vậy đây là một tài liệu đáng tin cậy. Vì lẽ tài liệu từ Đại Học soạn dịch và dạy cho sinh viên ở Nhật phải nói là hoàn chỉnh hơn những tài liệu khác. Dĩ nhiên không phải là hoàn toàn đúng hết; nhưng tài liệu ấy ta có thể y cứ được. 

Đại Đường Tây Vức Ký được soạn từ năm 646, như vậy cách nay đã 1357 năm (2003-646) mà văn thời đó là cổ văndĩ nhiên những triều Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều có sửa đổi lại cho hợp với câu văn của thời đại, để người sau đọc dễ hiểu hơn. Rồi đến thời Đại Chánh của Nhật Bản, tức hơn 1200 năm về sau, Đại Tạng Kinh nầy mới được hình thành tại Nhật và dĩ nhiên là đã được những học giả Nhật Bản san định lại một lần nữa theo sự hiểu biết của người Nhật qua tác phẩm Hán Văn trên. Rồi đến bây giờ 2003 đã hơn 100 năm như thế, ngay cả người Trung Hoa trong hiện tại, nếu không có học Phật và không rành cổ ngữ mà xem vào cũng giống như lội vào rừng chẳng có lối ra. Nghĩa là có thể đọc, chứ phần hiểu biết thì rất ít. Còn phần chúng tôi cố gắng dịch sát từng chữ để cho đúng ý của tác giả; nhưng chắc chắn là phạm rất nhiều sai lầm. Lý dothời gian quá lâu đã hơn 1300 năm, tác phẩm nầy mới dịch sang Việt ngữ và đã trải qua nhiều lần san định; nên chắc rằng vấp phải nhiều điều ngoài ý muốn.

Chúng tôi được một điều là biết thêm tiếng Nhật, cho nên việc tra cứu có phần dễ hơn một ít. Riêng chữ Hán nào không rõ thì phải tra tự điển cùng với Thầy Đồng Văn để làm cho rõ nghĩa, trước khi dịch. Thầy Đồng Văn biết nhiều chữ Hán và đã tốt nghiệp Tiến Sĩ Phật HọcẤn Độ năm 2001 tại Đại Học New Delhi nên những phong tục tập quán và địa danh Thầy ấy tương đối rành rẽ.

Sau khi dịch xong, chúng tôi trao qua Hòa Thượng Thích Bảo Lạc, bào huynh của tôi cũng đã tốt nghiệp Đại Học Phật Giáo Thiền Tào Động (Komazawa) tại Nhật để xem lại cho thật kỹ một lần nữa, trước khi cho in thành sách. Cho nên có thể tin tưởng thêm một phần lớn của dịch phẩm nầy. Thêm vào đó, Hạnh Giới là đệ tử xuất gia của tôi cũng mới vừa tốt nghiệp Tiến Sĩ Triết Học về Tôn GiáoNgôn Ngữ Học tại Đại Học Hannover, Đức Quốc cũng đã phụ lực trong việc đánh máy, tham cứu bài vở trong khi dịch để dịch phẩm nầy được thành hình. Dịch phẩm nầy được thành tựu cũng không thiếu phần đóng góp của Thầy Tông Nghiêm, người Mã Lai, Cao Học Phật Học, và chú Hạnh Tuệ, thị giả đã trợ lực cho Sư Phụ trong việc dịch thuật, vốn là điều cần trì chísức khỏe con ngườigiới hạn, phải đầy đủ thời gian cũng như hoàn cảnh xung quanh tốt thì mới hoàn thành được dịch phẩm nầy. 

Khi đọc sách, quý vị sẽ gặp những danh từ của nước, của địa danh, đôi khi khó đọc hoặc sai khác với nhiều bản, chẳng qua đó là do sự phát âm sang tiếng Trung Hoa, chỉ tựa tựa với tiếng gốc chứ không hẳn là hoàn toàn đúng. Ví dụ ngày xưa chúng ta phiên âm chữ Hán khi đọc tên Montesqieu là Mạnh Đức Tử Kiêu, thì người Pháp đọc chắc họ cũng chẳng hiểu là ông nào vậy; nhưng đó là một cái lệ mà người Trung Hoa và người Nhật, người Đại Hàn vì muốn đọc được hết các tên địa phương, tên người của quốc gia đó; nên đã phiên âm ra như vậy, để ai cũng có thể đọc được. Phần nầy, người Việt Nam chúng ta có thể tiến bộ hơn vì đã để nguyên nguyên âm danh từ nước hay nhân vật của nước ấy để đọc thì quả là tiện lợi vô cùng.

Lúc đầu khi đọc đến chữ "Tốt Đổ Ba" chúng tôi chẳng biết là nghĩa gì; nhưng sau mới biết là Ngài phiên âm chữ Stupa có nghĩa là Tháp hay Bảo Tháp. Nếu dịch thẳng ra tiếng Hán là Phù Đồ. Hoặc chữ "Đỗ Lợi Đa" nghĩa là Tushita cung trời Đẩu Suất. Hay chữ "Tu Đa La" có nghĩa là Sutra là Kinh tạng. Nếu không hiểu danh từ Phật Học khi gặp những chỗ nầy thật khó mà giải quyết.

Quý độc giả sẽ không tìm được Trư Bát Giới, Tôn Hành Giả, Sa Tăng và con Bạch Mã trong tác phẩm nầy như Ngô Thừa Ân đã giới thiệu qua tác phẩm Tây Du Ký mà ngày nay người ta đã đóng thành phim, ai xem cũng thích ba nhân vật kia hơn là Đường Tam Tạng; nhưng thật ra Đường Tam Tạng mới là vai chính trong khi đi thỉnh kinh như thế. Dĩ nhiên trên đường đi Ngài cũng đã gặp những nước chỉ toàn là đàn bà không có đàn ông, qua sa mạc, qua sông Tín Độ chảy xiết, voi bị sụp nước, kinh bị ướt mất, qua núi Thống Lĩnh lạnh buốt v.v... nhưng không có những yêu quái xuất hiện quá nhiều như trong Tây Du Ký đã mê hoặc độc giả

Những điều muốn nói, chúng tôi đã bộc bạch hết rồi. Mong rằng quý độc giả khi đi sâu vào nội dung của câu chuyện sẽ học hỏi được nhiều hơn. Tiện đây chúng tôi cũng xin phép tác giả họ Võ của quyển "Huyền Trang" và quyển "Đường Tam Tạng Thỉnh Kinh" cho in lại bài dịch ra tiếng Việt về lời tựa của Đại Đường Tam Tạng Thánh Giáo của Vua Đường Thái Tông mà Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ và Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu đã dịch năm 1960 để độc giả lãm tường.

Cuối cùng đại chúng tại Tu Viện Đa Bảo gồm năm người đến từ Đức đã ở đây gần ba tháng dưới sự chăm sóc của Hòa Thượng Thích Bảo Lạc và Thầy Phổ Huân cũng như quý cô và quý Phật Tử chùa Pháp Bảo ở Sydney; xin đa tạ thâm ân đó. Nếu không có sự trợ duyên nầy thì phần nhập thất, dịch Kinhtu học khó thành tựu được. 

Dịch Kinh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước đều hồi hướng
Khắp nguyện chúng sanh trong Pháp Giới
Đều được vãng sanh về Cực Lạc

Viết xong ngày 15 tháng 12 năm 2003 D.L.
tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi
nhân mùa nhập thất.
Thích Như Điển

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28090)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6642)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8728)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9228)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15231)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8168)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8611)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16596)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26691)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18482)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15488)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22359)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19282)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18179)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16061)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25459)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12796)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37748)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19917)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10634)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 9952)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10488)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10296)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 10966)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15069)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10787)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19532)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11599)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10678)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11146)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10044)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10467)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11461)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10811)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11311)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12048)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 10955)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 12934)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17599)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15043)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15530)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10907)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12004)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 10970)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21590)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12008)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9114)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20089)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17111)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 9994)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant