Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Mẹ chết con sống

25 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8882)
7. Mẹ chết con sống

CHUYỆN PHẬT ĐỜI XƯA
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

MẸ CHẾT CON SỐNG

Thuở ấy, Phật đang ở trong vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, gần thành Xá Vệ, với chúng đệ tử một ngàn hai trăm năm mươi người.

Lúc đó, có một vị vua tin theo đạo Bà-la-môn, hết lòng tin cậy nơi các thầy Bà-la-môn. Vua có một người phi tần trẻ tuổi, xinh đẹp, được vua yêu thương nhất. Bà này có thai, sắp đến kỳ sanh nở. Những phi tần khác của vua đem lòng ganh ghét bà này, lấy vàng bạc mua chuộc một thầy Bà-la-môn, bảo thầy tìm cách mà hại bà ấy.

Thầy Bà-la-môn nhận vàng bạc rồi, một hôm tìm đến gặp vua tâu rằng: “Người phi tần đang có thai là một người kém đức lắm. Nếu sanh con ra sau này sẽ có hoạ lớn trong nước.”

Vua nghe mấy lời ấy, lấy làm sợ sệt, mới hỏi thầy Bà-la-môn rằng: “Bây giờ phải làm sao?” Thầy Bà-la-môn đáp: “Chỉ có một cách thôi, là phải giết cả hai mẹ con đi thì mới khỏi hoạ.”

Vua nói: “Mạng sống con người ta quý giá lắm, làm sao trẫm có thể vô cớ giết đi cho được?” Thầy Bà-la-môn nói: “Nếu không làm việc ác nhỏ, về sau thế nào bệ hạ cũng phải mắc hoạ to, ắt sẽ phải mất nước và bỏ mạng.”

Vua tin theo những lời ấy của thầy Bà-la-môn, nên người phi tần đang sắp sanh nở phải bị chết oan. Người ta đem chôn bà sơ sài ngoài bãi đất hoang. Không ngờ đứa con trong bụng bà không chết mà tự chui ra được. Nó sống trong mồ, ôm lấy phân nửa thân mình của người mẹ chưa tan rã mà mút lấy sữa. Nhờ vậy mà được sống sót. Rồi như một phép lạ, nó chui theo kẽ đất mà ra khỏi mồ, bò lê trong bãi đất hoang, ăn những sâu bọ rễ cây, uống những sương móc mà lớn lên. Đến năm được ba tuổi, nó lân la về các xóm làng gần đó, được người ta thương cho ăn mà sống, tối lại quay về ngủ ở bên mồ mẹ nó.

Khi đứa nhỏ được sáu tuổi, đức Phật từ bi biết hết thảy câu chuyện thương tâm của mẹ con nó, lại biết đã đến lúc có thể cứu nó thoát khỏi cuộc sống u tối xưa nay. Ngài liền cùng với các vị đệ tử tìm đến bãi đất hoang nơi nó sinh sống, gọi nó đến và hỏi rằng: “Con là con cái nhà ai?” Đứa nhỏ vừa nhìn thấy đức Phật với dáng vẻ từ bi hoan hỷ thì vui mừng lắm, nó đáp: “Con từ nhỏ lớn lên không biết cha mẹ. Hằng ngày về xóm xin ăn, tối lại về đây ngủ. Hôm nay gặp được ngài, xin ngài cho con theo với.” Phật lại hỏi: “Con muốn theo ta làm gì?” Nó đáp: “Con muốn được như các vị đệ tử của ngài đây. Xin ngài nhận cho.”

Đức Phật liền nhận đưa nó về tinh xá. Khi nhìn thấy chúng tăng oai nghi, phúc hậu, nó càng lấy làm thích lắm. Nó thưa với Phật rằng: “Con cũng muốn được làm một vị sư.” Phật liền dùng tay vuốt tóc nó, tóc liền rụng hết, và có một bộ áo cà sa hiện ra trên thân nó. Đức Phật lại đặt pháp danh cho là Siêu Tử.

Thầy Siêu Tử tu hành tinh tấn, lại thông minh sáng dạ, nghe đâu hiểu đấy, nên tư tưởng thầy tiến bộ rất nhanh chóng. Trong bảy ngày, thầy thông hiểu đạo lý và chứng được quả A-la-hán, có đủ thần thông tự tại.

Một hôm, đức Phật gọi thầy Siêu Tử đến dạy rằng: “Con đã giải thoát khỏi mọi phiền trược của thế gian rồi. Nay ta cho con biết rằng cha của con là một vị quốc vương, xưa nay vẫn tin theo ngoại đạo tà kiến. Con nên đến đó tìm cáchcứu độ cho vua cha.”

Thầy vâng lời, cung kính lễ Phật rồi lui đi. Rồi thầy dùng thần thông hiện đến trước cung vua, xin được vào ra mắt đức vua. Quân hầu vào tâu rằng: “Bên ngoài có một vị sa-môn muốn được gặp bệ hạ.” Vua liền cho vào.

Hai bên chủ khách chào hỏi xong, nhà vua liền đến đứng trước thầy và hỏi: “Bạch thầy, trẫm có một việc lo buồn, không phải nên làm thế nào?”

Thầy Siêu Tử hỏi: “Bệ hạ lo buồn việc việc chi?”

Vua nói: “Trẫm nay đã lớn tuổi, không còn sống được bao lâu, mà vẫn chưa có người kế vị. Vì thế nên trẫm lo buồn.”

Thầy Siêu Tử nghe vua nói lời ấy xong thì bỗng nhiên thầy bật cười. Vua lấy làm giận, sai quân đuổi ra. Quân lính đến lôi thầy đi, thầy liền hiện thân bay lên hư không, đứng giữa hư không, rồi hiện ra nhiều phép thần biến khác, làm cho mọi người đều trông thấy. Vua thấy vậy lấy làm khiếp sợ, lấy làm hối hận, nói rằng: “Trẫm thật là người có mắt không tròng, chẳng phân chân giả. Nay đại đức có gì chỉ dạy xin nói ra cho.”

Thầy Siêu Tử từ trên hư không lại hiện xuống trước mặt vua và nói: “Này bệ hạ, như có người đang đói khát, lại mang những món cao lương mỹ vị sẵn có trong nhà mình ra vất bỏ ngoài bãi đất hoang, rồi đi than vãn với mọi người rằng: Tôi đói quá! Tôi đói quá! Bệ hạ nghĩ sao về người ấy?”

Vua nói: “Ấy thật là người ngu xuẩn và chuyện ấy thật đáng buồn cười.”

Thầy Siêu Tử nói: “Bệ hạ cũng không khác chi người ấy. Từ bao lâu nay vẫn mong cầu một đứa con trai nối nghiệp, thế mà có người phi tử sắp hạ sanh vương tử lại đem giết bỏ chôn ngoài bãi đất hoang, nay lại than vãn lo buồn về nỗi không con cái, há chẳng đáng cười lắm sao?”

Vua nghe nói tái mặt, vừa sợ vừa buồn, nhớ lại tội ác đã làm, liền nói: “Đại đức quả là thần thông diệu trí, có thể biết hết cả mọi chuyện trong thâm cung. Trẫm năm xưa làm việc ác độc ấy cũng là vì tin theo lời các thầy Bà-la-môn, nay nghĩ lại hối hận thì chuyện đã rồi. Xin đại đức nghĩ cách cứu độ cho.”

Thầy Siêu Tử nói: “Lời nói của thầy Bà-la-môn là vô căn cứ, bệ hạ lại mù quáng tin theo. Trong việc này bệ hạ không phải là không có lỗi. Nay muốn cải tà quy chánh thì vẫn còn kịp đó. Mong bệ hạ sớm biết tìm đường ngay nẻo thẳng mà đi.”

Vua quỳ xuống thưa rằng: “Lời đại đức dạy thật là thấu tình đạt lý. Từ nay trẫm xin được quy y theo đại đức.”

Thầy Siêu Tử nói: “Bần tăng tuy đã đạt được quả vị giải thoát, nhưng hãy còn kém xa đức Phật. Nay Phật đang còn tại thế, bệ hạ nên đến quy y với ngài.”

Ngay khi đó, vua ra lệnh cho quan quân chuẩn bị long xa để vua ngự đến tinh xá lễ Phật.

Đến nơi, vua cung kính lễ Phật, phát nguyện quy y Tam bảo và giữ theo Ngũ giới, làm người cư sĩ tu tập tại gia.

Phật dạy rằng: “Này đại vương, sa-môn Siêu Tử đây chính là con của người vợ có thai mà ngài đã giết, vì tin theo lời ác của một thầy Bà-la-môn. Người mẹ đã chết chôn dưới mộ, nhưng may là đứa con đã đủ tháng tự chui ra. Nhờ có phân nửa thân mình người mẹ chưa phân rã, vẫn còn sữa mà đứa con được bú. Khi lên sáu tuổi, nó theo ta mà học đạo. Nay trở thành sa-môn Siêu Tử đây.”

Vua nghe mấy lời của Phật, hiểu ra sự thật thì càng lấy làm sợ hãi. Phật lại kể tiếp cho vua nghe một câu chuyện như thế này:

Ngày trước có một vị vua tên Phu-sô-ta. Trong nước ông ta có một người dân nghèo không nhà cửa, thường ngày đi làm thuê cho các nhà giàu. Người ấy thường giữ việc dắt bò ra cho ăn ngoài đồng. Khi thấy nhân dân trong nước cung kính các vị sa-môn, người ấy mới theo hỏi rằng: “Vì sao các ông cung kính những vị ấy?” Họ đáp: “Chúng ta thờ Phật, trọng tăng, ngày sau sẽ được hưởng phúc.” Người ấy lại hỏi: “Hưởng phúc như thế nào?” Họ đáp: “Người nào có lòng lành, thường cúng dường các vị sa-môn, thì ngày sau dù ở đâu cũng được yên ổn, lại được kẻ khác thương mến, kính trọng và không gặp nạn khổ.”

Khi đó, người ấy tự nghĩ rằng: “Ta cũng rất muốn cúng dường các vị sa-môn để ngày sau được hưởng phúc, nhưng ta nghèo quá, phải đi giữ bò thuê cho người. Chính mình không có đủ thức ăn hằng ngày, thì lấy gì mà cúng dường cho các vị sa-môn?”

Rồi người ấy lại nghĩ: “Được rồi, ta có thể vắt lấy sữa bò mà cúng dường.” Nghĩ sao làm vậy, người ấy lấy lòng thành mà vắt lấy sữa bò cúng dường cho các vị sa-môn. Các vị ấy thọ nhận rồi chú nguyện rằng: “Nguyện cho nhà ngươi được hưởng phước đời đời!”

Từ đó về sau, trải qua nhiều kiếp luân hồi, người ấy luôn được hưởng nhiều phước lành. Cho đến một đời kia, người ấy được làm vua, trong lúc đi săn với triều thần có hoàng hậu đi theo. Đi chưa đến rừng, thấy một con bò cái giữa đồng. Hoàng hậu từ trước chưa đi săn bao giờ nên bảo mấy người thợ săn bắn nó cho mình xem. Vua ngần ngừ, nói: “Ấy là bò của dân nuôi, chẳng phải bò rừng. Vả lại, không nên giết bò cái, e là nó đang có mang.” Nhưng hoàng hậu không nghe, bảo thợ săn bắn chết con bò.

Ngay lúc đó, người chủ bò đến, thấy con bò cái đang có mang của mình đã bị bắn chết, liền rọc bụng đem được con bò con còn sống ra mà nuôi. Người ấy lấy làm oán giận, thề rằng: “Vô cớ mà giết bò của ta, ngày sau ta thề phải trả thù này.”

Nhà vua thuở ấy, sanh ra làm Siêu Tử đây, phải chịu cái khổ chưa ra khỏi lòng mẹ mà mẹ đã chết rồi, vì ngày trước không cản được hoàng hậu để cho con bò con phải sinh ra mà không có mẹ. Hoàng hậu thuở ấy tâm địa ác độc, muốn giết con bò mẹ chỉ để xem chơi, nay sanh làm mẹ của Siêu Tử, phải bị người ta giết oan để trả mối nợ cũ. Còn thầy Bà-la-môn xúi giục vua giết mẹ thầy, ấy là người chủ con bò cái ngày trước, vì lòng oán hận mà đeo đuổi theo nhau để trả thù. Nhưng thầy Siêu Tử sở dĩ muôn phần chắc chết mà vẫn còn sống được, là nhờ đời trước đã có lòng thành dâng sữa cúng dường cho các vị sa-môn.

Phật dạy: “Nhân quả ở đời như bóng theo hình, không hề sai chạy. Người làm lành tất phải được hưởng phước, người làm ác tất phải mang lấy hoạ.”

Vua nghe Phật thuyết xong, hiểu thấu lý nhân quả, tín tâm sâu vững, chứng được quả Tu-đà-hoàn là quả đầu tiên trong bốn Thánh quả. Những người theo vua đều phát tâm thọ trì Ngũ giới, tu pháp Thập thiện (mười điều lành).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34362)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16873)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22973)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13054)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21970)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22190)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14867)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23587)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24122)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23646)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17147)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19363)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27077)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14426)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13848)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22694)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14752)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17360)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12682)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13872)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10412)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14709)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17202)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12550)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12712)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10375)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28719)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10712)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11136)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16882)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15784)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13345)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12562)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11370)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13032)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19315)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12252)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28624)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10054)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21530)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12796)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17827)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26252)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11711)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10855)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22762)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12048)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10609)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11421)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11537)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant