Huỳnh Trung Chánh
MỞ TOANG CỬA ĐỊA NGỤC
Không hẹn mà ba người
bạn nối khố, sanh sống ở ba tiểu bang khác nhau, sau hai mươi lăm năm xa cách,
đã trùng phùng trong chuyến hành hương Trung Quốc. Cả ba là bạn đồng khóa sĩ
quan Đà Lạt và cùng mang cấp bậc trung tá, và tuy cùng định cư tại Hoa Kỳ,
nhưng thể thức ra đi của họ có những duyên nghiệp khác hẳn nhau. Phương may mắn
di tản kịp thời sang Mỹ từ năm 1975, và đã tạo nên sự nghiệp vững vàng tại tiểu
bang Virginia. Thanh học tập cải tạo 5 năm, vừa về nhà thì vợ chồng liền được
đám con bảo lãnh sang Houston, Texas. Luân kém may mắn hơn, chịu đựng đến 8 năm
cải tạo, rồi phải mòn mỏi chờ đến khi chương trình ra đi theo diện tù cải tạo
(H.O.) ra đời thì mới đưa được gia đình sang miền Nam California sinh sống. Kẻ
trước người sau đến xứ người lập nghiệp, cơ hội khác nhau, tiền bạc tích lủy nhiều
ít cách biệt... nhưng tựu trung thì ai cũng an cư lạc nghiệp, nhà cửa ấm cúng
và cũng thừa tiền an hưởng lúc tuổi già. Sau khi tay bắt mặt mừng, rối rít thăm
hỏi chuyện gia đình, nhà cửa..., họ hào hứng nhắc nhớ lại quãng thời ngang dọc
xa xưa, rồi bùi ngùi hồi tưởng đám bạn bè kẻ còn người mất, kẻ bệnh tật ngặt
nghèo, người tình duyên lỡ dở... Cả ba tự nhận họ thuộc vào hạng có phước có
phần, bản thân mạnh khỏe, gia đình yên ổn, con cái nên người..., ngoài ra, họ
còn may mắn ý thức được việc tu dưỡng thân tâm và nhân đó mới tham dự chuyến
hành hương nầy để vừa thưởng thức cảnh đẹp xứ người, vừa đáp ứng được lòng tôn
kính đối với chư Bồ Tát. Cả ba hân hoan theo phái đoàn lần lượt chiêm bái Ngũ
Đài, Nga Mi, Cửu Hoa và sau cùng vượt biển đến Phổ Đà sơn. Cả bốn đại danh sơn
đều được mọi người quy ngưỡng, nhưng địa điểm nào được chấm là đặc biệt nhất,
là điều mà ai cũng phân vân và đó cũng là câu hỏi mà ban tổ chức đã yêu cầu
Phật tử góp ý. Trong suốt chuyến đi, sáng dậy sớm lên đường, tối mịt mới nghỉ
ngơi, ba lão già oải gân ráng sức theo cho kịp phái đoàn lại vừa phải phân tâm
lo lắng cho mụ vợ hom hem cũng đã hụt hơi nên dù gặp nhau hằng ngày, mà chẳng
mấy khi họ có thời giờ rảnh rổi hàn huyên tâm sự. Mãi đến khi lên máy bay về
Mỹ, ba người bạn già mới có dịp ngồi xúm xít bên nhau tán gẫu chuyện đời, rồi
vô tình câu hỏi của ban tổ chức bỗng được nhắc lại.
Thanh khơi mào :
-Bốn đại danh sơn đều
linh thiêng mầu nhiệm, phong cảnh mỗi nơi mỗi khác mà đều hùng vĩ tuyệt vời,
chiêm bái nơi nào tôi cũng cảm thấy xúc động vô bờ, nên khi phải chọn lựa xếp
hạng là một quyết định rất gian nan. Suy đi nghĩ lại, tôi đã chọn Cửu Hoa sơn,
còn hai anh thì thế nào?
- Tôi cũng nhận thấy
có duyên đặc biệt với Ngài Địa Tạng., Luân đáp.
- Lạ quá! tôi cũng
giống y chang như hai anh. Đúng là tư tưởng lớn gặp nhau rồi! Chúng mình đều
hướng về Cửu Hoa sơn, nhưng lý do thầm kín thì có lẽ mỗi người mỗi khác. Ừ nhỉ!
sao mình không trình bày nỗi niềm riêng của mình cho bạn bè cùng chia xẻ cho
vui?, Phương góp ý.
Luân cũng lên tiếng :
- Hì ! hì ! Nên lắm!
phải lắm! Thế nhưng ai là người phải kể trước đây? Phương đã đề nghị thì phải
xung phong làm gương sáng cho anh em noi theo mới đúng?
Phương biết tranh cãi
với hai bạn cũng vô ích, nên cười hì hì nhận chịu. Anh mơ màng đưa hồn quay về
với chuỗi ngày niên thiếu xa xưa, rồi bắt đầu vào chuyện :
- Tôi sanh ra tại cù
lao Phố, nay là xã Hiệp Hòa, Biên Hòa. Đây là một địa điểm lịch sử và làø một
trong những cơ sở tiên khởi của ông cha ta trên con đường khai phá miền Nam,
nhờ vậy đã có những ngôi cổ tự xây dựng lâu đời như chùa Đại Giác và Chúc Thọ.
Thuở nhỏ tôi thường theo bà nội đi chùa Chúc Thọ tụng kinh Địa Tạng, và tại
đây, hơn một lần tôi đã nghe cô bác nhắc nhở đến giai thoại Thủ Huồng(1), một
giai thoại đã tạo ảnh hưởng sâu đậm cho niềm tin kính của tôi đối với Ngài Địa
Tạng. Theo truyền thuyết thì Oâng Thủ Huồng, tên thật là Võ thủ Hoằng, nguyên
là một viên thơ lại tại dinh Trấn Biên vào buổi giao thời Gia Long phục quốc.
Nương vào thời kỳ chánh trị bất ổn, kinh tế xáo trộn, Thủ Huồng mặc sức làm
giàu bằng đủ mọi hình thức. Ông lạm dụng quyền thế, gian lận của công, hối lộ,
sách nhiễu tiền bạc, cướp đoạt tài sản của dân chúng, ngoài ra, ông cũng không
từ nan những thủ đoạn kiếm tiền khác như đầu cơ tích trữ, cho vay nặng lãi,
lường công bóc lột tá điền, tổ chức bài bạc lấy xâu... Sau 20 năm cần cù làm
việc, gầy dựng nên một tài sản kếch sù, ruộng đất cò bay thẳng cánh, Thủ Huồng
mới từ dịch an hưởng đời sống phong lưu của bậc đại trưởng giả. Thủ Huồng không
con nối dõi, chỉ có người vợ yêu tâm đồng ý hiệp, sớm hôm bàn kế hoạch làm giàu
và lấy chuyện tích lủy tiền của làm niềm vui. Thế nhưng, bỗng dưng ngưòi vợ yêu
lâm bạo bệnh rồi từ trần. Thủ Huồng cực kỳ đau khổ, nhưng thương vợ thì y chỉ
có phương cách là tổ chức đám tang linh đình, đốt giấy tiền vàng bạc, lầu kho
thật nhiều với hi vọng người vợ yêu có thừa tiền của để hối lộ và tiêu pha tại
chốn âm ty. Vợ chết được mấy tuần thì Thủ Huồng bỗng chiêm bao nghe tiếng vợ
kêu gào rùng rợn khóc la, như đang bị ngục tốt dùng cực hình tra khảo. Thủ
Huồng thoạt nghĩ chỉ vì quá thương tưởng vợ nên sanh mộng mị, và mộng mị sẽ
biến dạng lần theo thời gian. Không ngờ tiếng kêu la của vợ cứ tái diễn hằng
đêm, khiến Thủ Huồng lo sợ thất thần ăn ngủ không yên. Thủ Huồng hoảng hốt tìm
lương y chạy chữa bệnh tâm thần, mặt khác, ông ta cũng nghĩ đến việc cầu cạnh
đám thầy cúng và đồng cốt, hạng người tự nhận có khả năng liên lạc với cõi âm
để nhờ họ dùng lễ lộc cúng vái quỷ thần chuộc tội cho vợ. Do đó, nghe ai chỉ
bày đồng cốt hay thầy cúng nào cao tay ấn, ông ta liền ân cần triệu thỉnh, tiền
bạc chẳng nệ hà tốn kém, nhưng thời gian kéo dài cả năm, lễ lộc liên miên mà
những cơn ác mộng hằng đêm vẫn không thay đổi. Nguyên trước kia Thủ Huồng cũng
có đến chùa đôi lần, nhưng nhận thấy chốn nầy chẳng sanh lợi lộc chi cả - bị
kêu gọi cúng dường tốn hao thì có - chưa kể còn bị nghe dạy dỗ “ăn hiền ở lành”
chán phèo, nên ông ta tránh né chùa chiền. Mãi đến khi lâm vào bước đường cùng,
Thủ Huồng buộc lòng phải tìm đến chùa Từ Aân, Gia Định lạy lục khẩn cầu hòa
thượng Phật Ý Linh Nhạc(2) cứu giúp. Sau khi nghe Thủ Huồng thuật lại cơn ác
mộng, hòa thượng ôn tồn phán dạy : “Vợ chồng con mang tâm địa giống nhau lại
thương yêu quấn quít chẳng rời, đồng vợ đồng chồng tạo tác ác nghiệp chung, do
đó tâm ý tương thông nhau khiến con cảm ứng được tiếng kêu than của vợ vọng lên
từ cõi địa ngục. Trường hợp nầy chỉ là một trong những hình thức của thần giao
cách cảm, tuy hiếm hoi nhưng vẫn xảy ra”. Hòa thượng hướng dẫn Thủ Huồng đến
chiêm bái tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát(3), rồi phán dạy tiếp : “Đây là tượng Bồ
Tát Địa Tạng. Ngài là vị Bồ Tát mang đại nguyện là đời đời kiếp kiếp cứu độ hết
thảy chúng sanh cho đến khi địa ngục trống không thì mới thành Phật, vì lẽ đó,
Ngài được tôn xưng là vị Giáo chủ cõi U Minh, ai muốn thoát cái khổ địa ngục
thì phải chiêm bái Ngài, hành hạnh nguyện của Ngài. Con hãy quan sát kỹ tượng
Bồ Tát, tay trái Ngài nâng hạt minh châu, tay phải Ngài cầm tích trượng. Minh
châu tượng trưng cho trí tuệ, dùng minh châu soi sáng cõi u minh cũng có nghĩa
là phát triển trí tuệ sáng suốt hầu thấy rõ con đường chánh đạo để tu tập mà xa
lìa địa ngục. Tích trượng có gắn mười hai khoen tượng trưng cho giáo lý 12 nhân
duyên. Tích trượng là cây gậy dùng để phá tan địa ngục, phá địa ngục không phải
bằng vũ lực mà là dựa trên giáo lý nhân duyên tu tập. Cách phá hay nhất là
không tạo nhân địa ngục thì sẽ không sanh quả địa ngục. Còn nhược bằng đã lỡ
gieo nhân địa ngục, thì phải thành tâm sám hối, bố thí, trì giới... tạo nhân
lành, để giũa mài cho mỏng dần cái quả địa ngục... rồi cứ thế mà liên tục thực
hành thì cái quả địa ngục mới có ngày hoàn toàn biến dạng. Giờ đây nhà chùa có
thể giúp đỡ con bằng cách hướng dẫn con lễ bái, cúng dường, tụng niệm kinh Địa
Tạng bổn nguyện... hoặc giả nếu như con phát tâm từ bi nhà chùa cũng sẵn sàng
thiết lập đại thủy đàn chẩn tế để con hành hạnh bố thí hồi hướng cho vợ con thì
càng tốt. Tuy vậy, con nên nhớ rõ rằng chính con phải tự cầm tích trượng phát
tâm dõng mãnh sám hối, bố thí, trì giới, nhẫn nhục... để phá địa ngục thì địa ngục
mới thực sự tiêu tan. Con và vợ con đã có thần giao cách cảm, con phát tâm thì
vợ con cảm ứng, nên cái khổ địa ngục của vợ con chắc chắn sẽ vơi lần...”. Nghe
hòa thượng nhắc nhở lý nhân duyên nghiệp báo, Thủ Huồng lo sợ cuống cuồng. Oâng
ta thừa hiểu tội ác của mình ngập đầu ngập cổ, như vậy nếu rơi vào chốn địa
ngục thì chắc chắn sẽ bị cực hình đau đớn gấp trăm, gấp ngàn lần cái khổ mà vợ
đang gánh chịu nữa. Thủ Huồng vội vã thỉnh cầu hòa thượng thương xót tổ chức
hướng dẫn tụng niệm cúng dường Bồ Tát Địa Tạng và thiết lập trai đàn thủy lục
để bố thí cầu nguyện cho vợ, ngoài ra, ông ta cũng kính thỉnh tượng Địa Tạng về
nhà, ngày đêm lễ bái, thành tâm sám hối thề không tái phạm lỗi lầm nữa. Trong
chiêm bao, tiếng rên la kêu gào của vợ bắt đầu giảm lần, hai tháng sau,
thì dường như đã dứt hẳn khiến Thủ Huồng cảm thấy có thể ăn ngon ngủ yên được
rồi. Một hôm Thủ Huồng chiêm bao thấy vợ thân thể bèo nhèo tiều tụy hiện về cho
biết nhờ chồng lễ bái, cúng dường Bồ Tát Địa Tạng và lập đàn phát chẩn tế hồi
hướng nên tội nghiệp giảm thiểu dần, giờ đây nàng không còn bị hành hạ ôm trụ
đồng lửa tại ngục Bảo Trụ hay bị cày lưỡi tại ngục Canh Thiệt nữa. Nàng đang
được quỷ tốt dẫn giải sang ngục gông cùm để chịu tội tiếp, nàng năn nỉ quỉ tốt
cho ghé nhà một phút thông báo tin mừng cho chồng rồi chạy đi ngay. Thương vợ
quá, hồn Thủ Huồng tức tốc chạy theo. Ông thấy vợ bị hai con quỷ hung dữ nanh
dài lôi kéo, tuy run sợ nhưng cũng lẽo đẽo theo sau dù phải giữ một khoảng cách
khá xa, chớ chẳng dám đến gần. Thủ Huồng cứ thế mà len lỏi đi theo xuyên qua
bao địa ngục khủng khiếp, thấy cảnh tội nhân bị móc mắt, cắt lưỡi, phanh thây,
kẻ bị bỏ vào vạc dầu sôi, ôm trụ đồng lửa... đang đau đớn kêu gào kinh rợn. Đến
địa ngục gông cùm, Thủ Huồng đang đứng xa xa lấm lét nhìn cảnh vợ mang gông,
bỗng bị viên cai ngục khám phá, chỉ mặt hét lớn : “Thằng kia! ngươi là tội nhân
địa ngục nào sao dám lảng vảng ở đây?”. Thủ Huồng sợ hãi run lẩy bẩy, tuy vậy,
nhờ hơn hai tháng qua, ngày đêm lễ bái Bồ Tát Địa Tạng, lúc lâm nguy bèn nhớ
ngay đến Ngài nên còn giữ chút bình tĩnh. Thủ Huồng lên tiếng : “Nam mô Địa
Tạng Vương Bồ Tát. Tôi không phải là tội nhân ở cõi địa ngục nào cả. Tôi tới
đây vì lòng tò mò mà thôi!”. Tên cai ngục bỗng đổi giọng nhỏ nhẹ : “Anh biết
nương về với Bồ Tát thì rõ ràng không phải là tội nhân ở đây rồi. Anh có điều
chi thắc mắc mà muốn tìm hiểu chốn nầy?”. Thủ Huồng lanh trí nhìn quanh quất
thấy có chiếc gông vĩ đại, to gấp ngàn lần cái gông bình thường, liền đáp
: “Cái gông bự tổ bố kia dùng vào việc gì vậy ông?”. Viên cai ngục tra xét
quyển sổ tội phạm dày cộm, rồi trả lời : “Gông nầy dành riêng cho tên Võ thủ
Hoằøng. Hắn là kẻ đại gian ác hiện đang sanh sống tại dinh Trấn Biên, xứ Đại
Nam. Sau khi mãn số, hắn sẽ bị hành hình dài dài ở khắp các địa ngục tên lửa,
xe sắt, giường sắt, nước đồng sôi, cày lưỡi, móc mắt, cắt lưỡi, cưa răng... rồi
mới tới đây”. Thủ Huồng cám ơn viên cai ngục, rồi phóng chạy một mạch về nhà
thì tỉnh mộng, mà nỗi kinh hoàng vẫn còn đeo đẳng đến độ tay chân rụng rời
không xê dịch được. Nhờ hằng ngày nghiền ngẫm pháp từ của hòa thượng Phật Ý
Linh Nhạc, Thủ Huồng đã hiểu rõ rằng chính mình phải dõng mãnh cầm tích trượng
nhân duyên để phá tan địa ngục của chính mình bằng cách phát lồ sám hối, bố thí
trì giới và xả thân phục vụ pháp giới chúng sanh. Thế rồi, Thủ Huồng truy tầm
những nạn nhân trước kia đã bị ông ta cưởng đoạt, lường gạt, bóc lột... để đền
bù lại những gì có thể bồi hoàn được. Mặt khác, ông cũng mở lòng nhân từ giúp
đỡ những gia đình nghèo đói, dưỡng nuôi kẻ già nua cô quạnh, rước thầy hốt thuốc
cho kẻ bệnh tật, lo ma chay tống táng cho kẻ chết bờ chết bụi... Oâng tận tụy
phục vụ cho mọi người, ở đâu mà nghe tiếng kêu than khóc lóc, thì ông liền tìm
đến an ủi cứu giúp. Sau hai năm hành hạnh nguyện bố thí, chi phí hơn nửa gia
sản, một hôm, Thủ Huồng lại chiêm bao thấy vợ. Lần nầy bà tươi vui cho biết nhờ
chồng thức tỉnh tu tập rồi hồi hướng công đức mà bà đã thoát khỏi cảnh địa
ngục, nay sắp đi đào thai nên vội lẻn về báo tin rồi từ giã ngay. Thủ Huồng
thương vợ bịn rịn chẳng muốn rời nên lốc cốc chạy theo. Bà vợ nhanh chân quá,
mới thấy đó đã biến mất đằng nào. Thủ Huồng len lỏi theo con đường cũ tìm kiếm.
Oâng cũng xuyên qua bao địa ngục rùng rợn, rồi cuối cùng lang thang đến đúng
địa ngục gông cùm năm xưa. Lần nầy Thủ Huồng rất bình tĩnh, ông chào viên cai
ngục rồi vui vẻ lên tiếng : “Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát! Xin chào Oâng. Oâng
còn nhớ tôi không?”. Viên cai ngục đáp : “Dĩ nhiên là nhớ. Anh còn thắc mắc
điều chi mà lò dò đến đây?”. Thủ Huồng trả lời : “Tôi muốn xem lại cái gông to
lớn năm xưa để biết hình dạng nó giờ đây đã thay đổi như thế nào?”. Viên cai
ngục lắc đầu ra vẻ ngạc nhiên : “Lạ quá anh ạ! Chẳng biết thằng cha Võ thủ
Hoằøng đó đã ăn năn sám hối ăn hiền ở lành như thế nào, mà cái gông đó teo nhỏ
dần. Anh hãy nhìn xem kià! Nó nhỏ xíu, và có lẽ sắp biến dạng đến nơi rồi...”.
Thủ Huồng mĩm cười đáp : “Thú thật với ông cai, Võ thủ Hoằøng chính là tôi đây.
Từ ngày quy ngưỡng Bồ Tát Địa Tạng, tỏ tường lý nhân duyên, tôi đã phát lồ sám
hối, thề tránh điều dữ, nguyện làm việc lành... chỉ mong chuộc lại lỗi lầm năm
xưa mà thôi. Tôi hi vọng sẽ không phải theo nghiệp dữ mà đến đây mang
gông mang cùm làm bận rộn cho quí ông. Xin cám ơn ông và xin chào ông.” Trở về
trần thế, Thủ Huồng bền bĩ tiếp tục hạnh nguyện cứu giúp kẻ bần cùng. Ngoài ra,
ông còn bỏ tiền ra đắp đường, vét sông rạch, xây cầu, dựng bè xây nhà ngay ngã
ba sông Đồng Nai và Saigon cho thuyền nhân qua lại có chỗ tạm trú chờ con nước
thuận. Những năm cuối cùng của cuộc đời, ông gom hết tài sản còn lại, xây dựng
ngôi chùa Chúc Thọ dâng lên hòa thượng Phật Ý Linh Nhạc, rồi thanh thản từ giã
cõi đời, ra đi không vướng bận một đồng xu ten dính túi. Tuy vậy, sự nghiệp của
ông : ngôi chùa Chúc Thọ, con rạch, cầu đá, con đường lộ... vẫn còn tồn tại cho
người đời sau hưởng dụng, riêng cái “nhà bè” dầu dấu vết đã biến mất mà địa
danh Nhà Bè vẫn còn phảng phất trong câu hát điệu hò :
“Nhà Bè nước chảy chia
đôi.
Ai về Gia Định, Đồng
Nai thì về...”
Trong khi làm lễ tống
táng Thủ Huồng, hòa thượng Phật Ý Linh Nhạc muốn lưu lại sự tích đặc biệt của
người Phật tử nầy nên có biên mấy chữ son trên lòng bàn tay phải của ông ta.
Mười mấy năm sau, vua Đạo Quang nhà Thanh cho sứ giả sang Việt Nam yêu cầu
triều đình Huế dò la tung tích Thủ Hoằng, vì trên lòng bàn tay của một hoàng tử
khi sanh ra có hàng chữ “Đại Nam, Gia Định, Thủ Hoằng”. Sau khi truy tầm được,
vua Đạo Quang có gởi tặng chùa Chúc Thọ ba tượng Phật bằng gỗ trầm hương và bia
đá ghi lại sự tích, mà đến ngày nay vẫn còn lưu giữ tại chùa. Từ thuở thiếu
thời, sự tích nầy đã gây ảnh hưởng rất sâu đậm trong lòng tôi. Tôi thành tâm
ngưỡng mộ Bồ Tát Địa Tạng, vẫn dặn lòng phải luôn luôn tự soi sáng hành động
mình bằng lý nhân duyên, nhờ vậy đến từng tuổi nầy, khi có dịp nhìn lại quãng
đời qua, tôi rất mừng rằng mình đã không đến nỗi gây ra những ác nghiệp nặng
nề.
Phương vừa chấm dứt
câu chuyện, thì Luân liền lên tiếng :
- Tôi phục vụ tại tiểu
khu Biên Hòa đến sáu năm, vậy mà không có duyên để biết câu chuyện Thủ Huồng.
Tiếc thật! Không may mắn như anh Phương, nhân duyên hướng dẫn tôi đến với Bồ
Tát Địa Tạng trễ lắm. Nguyên tôi vốn chẳng quan tâm mấy đến những vấn đề liên
hệ tôn giáo, mãi đến khi đi học tập cải tạo mỏi mòn hơn bảy năm trời, nổi khổ
đau chất ngất đến độ muốn quyên sinh cho nhẹ nợ trần thì bất ngờ tôi nhận được
quyển kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện. Trong một chuyến thăm nuôi, bỗng dưng bà
xã liều lĩnh mang quyển kinh dấu trong giỏ thực phẩm trao cho tôi, dặn dò nhớ
tụng niệm để được Bồ Tát gia hộ mà thoát khổ. Như hai anh cũng biết, họ kiểm
soát cẩn mật lắm, kinh sách là loại cấm kỵ, họ mà khám phá thì bị tống vào
chuồng cọp chớ chẳng chơi, vậy mà qua hai lần lục lạo móc moi không sót chỗ
nào, họ vẫn không thấy được quyển kinh. Sự kiện nhiệm mầu đó là động cơ thúc
đẩy tôi đọc tụng tìm hiểu từng lời kinh, và chỉ trong thời gian ngắn đã chuyển
biến con người không có niềm tin Trời Phật như tôi, thành kẻ biết quy kính Tam
Bảo chân thành học Phật tu thân. Thật vậy, ngay khi vừa mới đọc tụng kệ khai
kinh, xướng lên hạnh nguyện của Bồ Tát : “Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật.
Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ Đề”(4) thì tôi đã xúc động run rẩy, nước mắt
ngập tràn. Thân phận tội tù của chúng mình là đối tượng cho người ta hành hạ
thể xác lẫn tinh thần, mình bơ vơ, lạc lõng chẳng còn chút niềm tin. Bây giờ,
mình được trao cho niềm tin, mình có nơi nương tựa, mình hiểu rõ rằng, dù có bị
đọa đầy ở chốn địa ngục tàn khốc như thế nào, thì Bồ Tát Địa Tạng cũng đến tận
nơi để cứu độ mình. Ý nghĩ Bồ Tát luôn luôn kề cận bên mình thật là kỳ diệu. Từ
đó, dù là lúc lên rừng đốn cây hay làm tạp dịch quanh trại, mỗi khi nghe tiếng
chim hót, thấy con bướm nhởn nhơ, một đóa hoa dại hé nở, một cụm mây bay... tôi
đều có cảm giác như Bồ Tát đang hiện hữu dưới hình dáng đó để an ủi tôi, để chở
che đùm bọc tôi. Nhờ vậy, tôi cảm thấy lòng mình an vui thanh thản lạ thường,
nỗi niềm khổ đau, thù hận không còn dày dò nữa, có thể nói, tuy thân xác vẫn ở
tù mà tâm thì đã thơi thới không bị buộc ràng. Hằng ngày tôi âm thầm tụng kinh,
đi đứng làm lụng tôi niệm danh hiệu của Ngài, nên không có thời giờ trống trải
để vớ vẩn âu lo, thậm chí tôi cũng không quan tâm đến chuyện về hay ở nữa. Càng
tụng kinh tôi càng ý thức rằng cái quả khổ đau ngày nay tôi gánh chịu là do cái
nhân bất thiện mà tôi đã gây ra, nên tôi chân thành sám hối, nguyện sửa đổi lỗi
lầm, tránh làm điều ác, siêng làm việc lành. Đúng ba tháng sau thì tôi được trả
tự do. Trước khi rời trại tôi bàn giao quyển kinh cho Thiếu Tá Cử, nguyên
trưởng Phòng ba, tiểu khu Bình Dương và anh Cử cũng được về nhà trong vòng 6
tháng. Người ngoài có thể cho sự kiện trên chỉ là một sự trùng hợp, nhưng riêng
tôi, tôi tin tưởng là có sự cảm ứng nhiệm mầu, và Bồ Tát Địa Tạng đã gia hộ cho
tôi. Từ đó đến nay, lòng tôi lúc nào cũng hướng về Ngài để thành tâm quy
ngưỡng, và nương tựa Ngài mà tinh tấn tu sửa thân tâm. Khi tham gia chuyến hành
hương tứ đại danh sơn, dĩ nhiên ưu tiên của tôi là chiêm bái thánh địa của
Ngài. Tôi thao thức mong đợi từng giây từng phút nên ngày đầu tiên đến thánh
địa trời sụp tối không chiêm bái liền được, tôi trằn trọc suốt đêm không ngủ.
Liên tiếp hai ngày sau, tôi theo phái đoàn chân thành chiêm bái khắp nơi : Hồi
Hương Các, Vạn Niên tự, Kỳ Viên tự, Đại Nguyện tự, Địa Tạng thiền tự, và Nhục
Thân bảo điện, nơi nào cũng trang nghiêm hùng vĩ, và nơi nào tôi cũng xúc động
với cảm giác là Bồ Tát Địa Tạng vẫn hằng hiện hữu đâu đây. Điểm đặc biệt là
trong khi chiêm ngưỡng nhục thân bất hoại của Ngài Vô Hàø tại chùa Vạn Niên(5)
và Ngài Từ Minh tại chùa Địa Tạng, tôi cảm thấy vừa hân hoan vừa thương cảm,
nước mắt ràn rụa như trẻ thơ gặp mẹ vì tôi tin tưởng chắc chắn rằng nếu như tôi
dõng mãnh tinh tấn tu tập thì tôi cũng sẽ gần gũi với Bồ Tát Địa Tạng như những
vị nầy.
Thanh gật gù ra vẻ tán
đồng, rồi chậm rãi lên tiếng :
- Hai anh đều sẵn có
nhân duyên lớn với Bồ Tát Địa Tạng, còn phần tôi, thú thiệt rằng phải nhờ
chuyến hành hương nầy tôi mới am hiểu sơ lược về Ngài, dầu vậy, tôi cũng cảm
thấy mình được chuyển hóa nhiều lắm. Tuy nhiên, chuyện của tôi là chuyện tình
cảm riêng tư vụn vặt, chẳng cao sâu hay hào hứng đặc biệt gì cả, nên tôi xin
hai anh cho được miễn trình bày nhé?
Luân phản đối tức khắc
:
- Đâu có chuyện kỳ cục
vậy Thanh! Tụi mình đã hẹn với nhau thì phải làm theo đúng lời hứa chứ. Vả lại,
mình là dân nhà binh mà, phải thi hành trước rồi mới được khiếu nại sau, anh
đâu thể viện lý do nầy kia để tránh né như vậy được!
Phương cũng kỳ kèo :
- Đối với anh em mình
thì đâu có chuyện riêng tư nào phải giữ kín anh Thanh! Vả chăng chuyện đạo mà
đem áp dụng vào cuộïc đời mới có giá trị thực tiển để học hỏi chớ. Xin anh
trình bày cái suy tư hay tâm tình của anh về Bồ Tát Địa Tạng hầu anh em tùy
nghi rút tỉa kinh nghiệm mà tu tập. Tôi tin chắc câu chuyện sống thực của anh
sẽ mang lợi lạc cho tôi nhiều lắm!
- Hai anh nhứt quyết
đòi nghe thì tôi đành phải vâng lời thôi! Thú thật với hai anh là vợ chồng tôi
tuy bề ngoài sống rất ư là hạnh phúc, nhưng thật ra thì tôi cũng có nỗi khổ tâm
riêng, thậm chí đôi khi tôi có cảm giác bứt rứt như mình bị tù hãm vậy, đây
chính là lý do đã đưa tôi tìm về suối nguồn Phật giáo làm nơi nương tựa.
Thanh ngừng lại, buồn
hiu buông tiếng thở dài, khiến cho Phương và Luân đâm ra ái ngại. Họ thật lòng
chỉ muốn nài ép Thanh kể chuyện cho vui không ngờ vô tình lại khơi dậy nổi khổ
thầm kín trong lòng bạn, nên vội vã lựa lời an ủi. Luân lên tiếng :
- Đừng buồn Thanh ạ!
trời đất còn có khi mưa khi nắng, thì tình vợ chồng sao chẳng có lúc mặn nồng
khi lại đắng cay. Hoàn cảnh tôi nào có khác chi hoàn cảnh anh. Tuổi đời chồng
chất, thân thể bệnh hoạn, bà xã tôi dễ sanh cau có, quạu quọ ngay cả với những
chuyện vu vơ. Con cái đều ra riêng, quanh đi quẩn lại trong nhà chỉ có hai vợ
chồng già hủ hỉ, nên dĩ nhiên tôi phải lãnh trọn vẹn những tiếng cằn nhằn của
bả. Hai anh nghĩ coi, suốt ngày tôi cứ bị cái âm điệu khàn khàn dai dẳng xoáy
vào lỗ nhĩ hoài nhức nhối buốt óc, buốt tim thì làm sao chịu đựng nỗi, có lúc,
tôi muốn phát điên lên được. Lần đó bả gọi tôi ra ăn cơm, tôi mê đọc sách ra
trễ chừng năm phút thì thấy mặt mày bả đã chầm dầm, rồi bả lại bắt đầu mở máy
nói khiến tôi nóng mặt nuốt cơm chẳng trôi. Bỗng nhiên tôi nhớ lại thuở ban đầu
xa xưa ấy, tôi thường ham vui với bè bạn về trễ, có khi để người vợ trẻ phải
chờ cơm đói meo cả mấy tiếng đồng hồ, thế mà nàng chỉ buồn buồn chớ không trách
tôi một lời. Lúc đó tôi chỉ cần nựng nàng rồi an ủi một câu : “Tội nghiệp em cưng!
anh về trễ làm cho em phải chờ cơm! thương quá là thương!”, thì nàng đã đổi
buồn thành vui, ríu rít bên tôi như con chim sơn ca rồi. Tôi liền tự hỏi còn
bây giờ thì sao? Tôi nhìn kỹ bả. Oâi, người con gái duyên dáng tràn đầy nhựa
sống năm xưa đã biến thành già nua lụm cụm, bả tàn tạ thảm thương, bả bệnh hoạn
mệt mỏi rã rời, thảo nào bả chẳng dễ sanh phiền muộn. Phần tôi, tôi cũng khô
cằn còm cõi, tôi đâu còn tươi mát tán tỉnh cợt nhã với bả ngọt ngào như xưa,
thành thử đời sống vợ chồng đâm ra lê thê buồn nãn. Bỗng dưng tôi nghĩ không
phải chỉ cái thời gian mà chính tôi và lũ con tôi cũng là những nguyên nhân lớn
đã tàn phá con người bả. Cả đời bả ăn không no ngủ không yên, dành hết thời giờ
tẩn mẩn chăm sóc chồng con từng miếng ăn, từ cái mặc, rồi đến khi tôi lâm cảnh
lao lung, một mình bả phải tảo tần ngược xuôi trăm cay ngàn đắng kiếm sống, lại
còn phải gian nan lặn lội thăm nuôi chồng tại những trại tập trung heo hút.
Tình thương vợ bỗng dâng tràn, tôi vuốt mấy sợi tóc bạc lòa xòa trên trán bả,
âu yếm nói : “Oâi! thương làm sao á! em suốt đời chăm lo săn sóc chồng, mà anh
hư quá để em chờ đợi cơm canh nguội lạnh! tội nghiệp em cưng quá!” Đang hờn
giận nhau, chúng tôi cảm thấy thương nhau hơn bao giờ hết, vì vậy, từ dạo đó,
tôi thường lưu ý bả, chăm sóc đùa giỡn với bả như thời trẻ trung nhờ vậy chuỗi
ngày già đỡ tẻ nhạt, và tình nghĩa vợ chồng lại dào dạt đầm ấm như xưa.
Phương cũng góp ý :
- Đúng như anh Luân
nhận xét. Bọn đàn ông chúng mình, thời trẻ trung thường hào hoa phong nhã, biết
săn sóc tán tỉnh vợ, thỏ thẻ những lời âu yếm nồng nàn, nhưng đến khi lớn tuổi
rồi thì lại “quá đứng đắn” thành thử đời sống vợ chồng lợt lạt dần, đến nỗi khi
chuyện gối chăn thưa thớt, con cái có đời sống riêng tư thì hai vợ chồng già
lủi thủi chán chường, trơ mắt nhìn nhau khô khan tình cảm. Họ gượng gạo sống
bên nhau mà chẳng chút niềm vui, thì có khác gì là đang sống trong địa ngục.
Tại sao những người già không có thể nói những lời thiết tha âu yếm với nhau như
thời trẻ để làm gia vị thêm cho đời sống vợ chồng, tôi nghĩ “mụ vợ già” cũng có
nhu cầu và có quyền được chồng tán tỉnh, cợt nhã như thời còn là người vợ trẻ
phải không hai anh?
Thanh bỗng tũm tĩm mĩm
cười lên tiếng :
- Khâm phục! khâm phục
lắm! Ý kiến của hai anh thực tiển vô cùng, tôi sẽ lưu ý áp dụng để có thêm lợi
lạc, ngặt một điều là trường hợp vợ chồng tôi lại không giống hoàn cảnh kẻ
khác. Lý do là chuyện trục trặc của chúng tôi xảy ra chẳng qua chỉ vì bà xã tôi
thương tôi quá mức, săn sóc tôi kỹ quá nên tôi cảm thấy tù túng mà thôi...
Luân cướp lời :
- Vậy mà anh làm người
ta tưởng anh bị vợ hành hạ chớ! Anh làm tụi tôi lo lắng tìm lời phân giải để
anh cười chơi phải không?
Phương cũng trách :
- Đúng là gừng càng
già càng cay, anh càng già càng độc, tôi bị anh giăng bẫy sụp hoài, mà lần nầy
vẫn hấp tấp nên lại rơi vào tròng.
- Hì! hì! coi kìa! tự
hai anh hiểu lầm chớ tôi nào mở miệng oán trách bà xã câu nào đâu? Còn chuyện
được thương quá mức, được săn sóc quá mức thì cũng bị ngột ngạt tù túng chứ!
Người ta nói bị nhốt trong nhà đá, lò giam sắt, trong tháp ngà hay trong vòng
tay âu yếm cũng đều là ở tù kia mà! Đúng ra, phải nói tình thương của bả mang
tính chất chiếm hữu nên dính mắc và độc tài. Bả quá sức thương tôi mà độc tài
thành thử tôi bị ràng buộc mất hết tự do, ngay việc tu tập cũng bị ngăn trở
nữa. Phần bả tuy phát nguyện Niệm Phật để vãng sanh cõi Tây Phương Tịnh Độ mà
vướng mắc bi lụy thì làm sao thành công cho được. Tôi nghĩ vợ chồng chúng tôi
phải học lối thương yêu theo tinh thần từ bi hỷ xả của chư Bồ Tát thì mới không
gây phiền não cho nhau, và đó là lý do chúng tôi tham gia chuyến hành hương
nầy. Tôi chỉ nhập đề thôi mà...
Phương cười xuề xòa
lên tiếng :
- Thôi anh khỏi ngụy
biện nữa, tôi đồng ý là anh chỉ mới nhập đề thôi, vậy xin anh hãy đi thẳng vào
chuyện Cửu Hoa sơn cho rồi, kẻo hai đứa tôi ngóng chờ hoài, cái cổ đã dài nhằng
mà vẫn còn được nghe được đây nè!
- Hì hì! Chuyện như
thế nầy đây : Trước ngày hành hương, tôi có nghiên cứu sử liệu về bốn đại danh
sơn, thì được biết tại ba đại danh sơn kia, Bồ Tát Văn Thù đã hiển thánh xuất
hiện tại Ngũ Đài, Bồ Tát Phổ Hiền tại Nga Mi và Bồ Tát Quán Thế Aâm tại Phổ Đà,
sự tích rất rõ ràng, nhưng riêng Cửu Hoa sơn thì không điển tích nào kể lại sự
xuất hiện của Ngài Địa Tạng cả. Cửu Hoa sơn, đúng ra chỉ là đạo tràng của vị
thánh tăng tục danh Kim kiều Giác. Ngài nguyên là hoàng tử nước Cao Ly, xuất
gia rồi vượt biển sang Trung Quốc ẩn tu tại một ngôi am cổ trên ngọn Phù
Dung. Đức hạnh của Ngài không lâu đã vang lừng khắp huyện Thanh Dương, rồi lan
rộng đến kinh đô. Vua Đường hâm mộ Ngài nên đã truyền xuất công quỷ lập ngôi
chùa “Hóa Thành” để Ngài có nơi rộng rãi hoằng dương Phật Pháp. Ngài an nhiên
thị tịch năm 99 tuổi, đệ tử theo di huấn đặt nhục thân Ngài trong chum. Ba năm
sau mở chum, nhục thân Ngài không hư rữa mà vẫn tươi như lúc sống, lại thoang
thoảng mùi hương. Khi nhấc nhục thân ra khỏi chum, thì bỗng nghe phát ra tiếng
khua tợ như chuỗi xích vàng rung chuyển. Do hiện tượng nầy, người đời sau tin
tưởng Ngài là một ứng hóa thân của Bồ Tát Địa Tạng và tôn xưng Ngài là Kim Địa
Tạng. Tóm lại, tôi thầm nghĩ dù sao Cửu Hoa cũng không có sự hiển thánh
nên tôi khó tin tưởng đây là một linh địa ngang hàng với Ngũ Đài, Nga Mi và Phổ
Đà. Thế nhưng ngay đêm đầu tiên tại đây, vừa chợp mắt tôi chiêm bao thấy mình
phủ phục lễ lạy tượng Bồ Tát Địa Tạng, khi tôi đứng dậy thì lạ lùng thay, trước
mắt tôi không là một pho tượng đơn độc nữa, mà là một pháp hội vĩ đại có vô số
Bồ Tát Địa Tạng tề tựu. Tôi đang ngây ngất chiêm ngưỡng pháp hội kỳ diệu đó thì
giật mình tỉnh dậy trong niềm an lạc vô biên tràn ngập. Trạng thái kỳ diệu nầy
vẫn tiếp tục miên man trong lòng tôi trong suốt hai ngày hành hương chiêm bái,
nhất là trong khi nghe thầy giảng giải về sự tích Ngài Vô Hà tại cung Bách Tuế,
chùa Vạn Niên. Nguyên sư Vô Hà đã tìm đến Cửu Hoa với hoài bảo chiêm bái chân
thân Ngài Kim Địa Tạng nhưng vào thời buổi loạn lạc, cảnh Phật điêu tàn, sư
không thể truy tầm dấu vết chân thân Ngài Kim Địa Tạng được. Thế rồi sư ở lại
ẩn tu cho đến khi viên tịch năm vào năm 110 tuổi và cũng để lại một nhục thân
bất hoại như người xưa. Lúc đó, tôi bỗng rung động ràn rụa nước mắt nghĩ rằng
Ngài Vô Hà không gặp mà đã gặp. Ngài không thấy chân thân người xưa nhưng đã
thực sự gặp Bồ Tát Địa Tạng bằng chính hạnh nguyện tu tập của Ngài. Thế rồi,
tôi bỗng liên tưởng đến giấc chiêm bao về pháp hội hiện diện vô số Bồ Tát Địa
Tạng, và trực nhận ra một điều là bất cứ ai mà có đồng hạnh nguyện với Địa Tạng
Vương Bồ Tát, thì cũng đều là hiện thân của Bồ Tát Địa Tạng cả. Tôi thầm nhủ :
“Vậy thì, các vị thánh tăng Kim kiều Giác, Vô Hà, Từ Minh... không phải đều là
những Bồ tát Địa Tạng sao? hà huống mình phải nhọc lòng sưu tầm sự tích hiển
thánh khác chi nữa?” Trong giây phút xuất thần đó, tôi bỗng xúc động quì xuống,
chấp tay phát nguyện : “Kính lạy Đức Bồ Tát Địa Tạng. Con xin học hạnh nguyện
của Ngài. Con nguyện sẽ tinh tấn tu tập để làm sáng tỏ tâm Địa Tạng nơi con,
hầu con có thể hội đủ dũng lực để mang ánh sáng của Đạo Pháp đến với những kẻ
đang sống trong tăm tối của tội lỗi, trong tù ngục của ngu dốt, hận thù, kỳ
thị... Kính xin Bồ Tát gia bị cho con”...
Phương nức nở khen
ngợi:
- Suy tư của anh về tự
tánh Địa Tạng thật là đặc biệt! nếu ai mà quay về với tự tánh Địa Tạng thì tự
thân người đó là một Địa Tạng, tự thân người đó đã “Vung tích trượng mở toang
cửa địa ngục”(6) mà chính họ đã xây rồi.
Luân cũng vỗ tay tán
thưởng :
- Hoan hô Thanh! Tôi
cũng xin bắt chước anh, nguyện sẽ tinh tấn tu tập để làm sáng tỏ tâm Địa Tạng
trong tôi!
Tháng 7.2000
Ghi chú :
1. Sự tích Thủ Huồng và chùa Chúc Thọ được truyền tụng trong dân gian và có ghi lại trong Đại Nam nhất thống chí, Gia Định thành thông chí của Trịnh hoài Đức và nhiều sử liệu khác. Các giai thoại Thủ Huồng về đại cương tương đối giống nhau, nhưng về cách thức mà Thủ Huồng đã viếng địa ngục thì có ít nhất là ba thuyết khác biệt : a. Thủ Huồng được Hà Bá sông Đồng Nai đưa đi b. Thủ Huồng được đồng cốt tại chợ Mãnh Ma, Phan Rang đưa đi gặp vợ đã chết. Vợ Thủ Huồng đang làm thị nữ cung Diêm Vương, vận động xin cho chồng giấy phép thăm viếng các địa ngục và c. thuyết đã ghi trong tập truyện nầy.
2. Thiền sư Phật Ý Linh Nhạc (1725-1821) : sư là đệ tử xuất sắc của hòa thượng Thành Đẳng Minh Lượng, chùa Đại Giác, dinh Trấn Biên. Sư đã tiên phong đi theo di dân vào huyện Tân Bình, Gia Định, lập chùa Từ Aân hoằng hóa, sau đó, đã kiêm nhiệm trụ trì luôn cả chùa Khải Tường, Gia Định và chùa Đại Giác, Đồng Nai. Sư là vị đạo đức cao tăng bực nhất miền Nam vào cuối thế kỹ thứ 18, đã đào tạo nhiều bậc tăng tài xuất chúng như : 1. Thiền sư Tổ Aán Mật Hoàng(1735-1835), trụ trì chùa Đại Giác, được vua Gia Long triệu thỉnh làm tăng cang chùa Thiên Mụ, sau trụ trì chùa Quốc Aân, Huế 2. Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt, được vua triệu thỉnh làm tăng cang chùa Thiên Mụ 3. Thiền sư Tổ Tông Viên Quang(?-1828), trụ trì chùa Giác Lâm, khai sơn chùa Giác Viên 4. Thiền sư Tổ Đạt Trí Tâm, trụ trì các chùa chùa Khải Tường, Gia Định, chùa Long Thạnh, Bà Hom và chùa Chúc Thọ, Đồng Nai.
3. Tượng Bồ Tát Địa
Tạng phổ biến nhất là tượng Bồ Tát trong dáng xuất gia, cạo đầu, mặc áo ca sa,
tay mặt cầm tích trượng có mười hai khoen, tay trái nâng hạt minh châu, ngồi
trên lưng bạch khuyển tên Đế Thính (cũng còn gọi là linh khuyển tên Thiện Thính
hoặc Đề Thính). Tượng Bồ Tát Địa Tạng tạc phảng phất theo hình dáng của Ngài
Kim kiều Giác (giống như trường hợp tượng Bồ Tát Di Lạc tạc theo Ngài Bố Đại
hòa thượng), với những thâm nghĩa như sau :
- đầu tròn áo vuông là
hình ảnh giải thoát, muốn giải thoát khỏi địa ngục thì phải dấn thân tu tập như
một tu sĩ.
- hạt minh châu tượng
trưng cho trí huệ. Trí huệ bừng nở thì vô minh tan biến, cũng như ánh sáng chói
rọi thì bóng tối không còn nữa. Do phát triển trí huệ hành giả mới đón nhận
được chánh pháp để dấn thân tu tập.
- tích trượng có 12
khoen tượng trưng cho giáo lý 12 nhân duyên. Giáo lý căn bản để phá địa ngục là
giáo lý nhân duyên, thâm nhập giáo lý nầy thì không còn gieo ác nghiệp nữa thì
làm sao bị đọa xuống địa ngục.
- Bạch khuyển (con chó
trắng tức trung tín nơi thiện pháp) Đế Thính (nghe chân thật) : tượng trưng
lòng trung kiên thấy nghe pháp chân thật để phát triển thiện nghiệp.
Tinh thần tự lực thể
hiện rất rõ rệt qua hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, theo đó thì chính hành giả
phải tự mình nâng hạt minh châu trí tuệ, vung tích trượng mười hai nhân duyên
để phá tan cái địa ngục do chính mình đã xây cho mình.
4. Địa ngục chưa trống không, quyết chẳng thành phật. Độ hết thảy chúng sanh, mới chứng quả Bồ Đề.
5. Vạn niên tự (Bách Tuế cung) : Ngài Vô Hà, pháp danh Hải Ngọc, sanh năm 1513, xuất gia năm 24 tuổi tại Ngũ Đài, sau đó đến Nga Mi tu tập cho đến năm 1573, Ngài đến Ma Không Lãnh, Cửu Hoa sơn dựng am tu tập, dân chúng gọi đó là am Trích Tinh. Ngài chỉ dùng trái cây, uống nước suối (không dùng thức ăn nấu nướng) và không xuống núi. Hòa thượng nghiêm trì tu tập, hàng ngày tự cắt đầu ngón tay lấy máu sao chép bộ Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm kinh liên tục trong 28 năm, mới hoàn tất. (Bộ huyết kinh nầy vẫn còn tồn tại và được lưu giữ tại Nội Quán Văn Vật Lịch Sử Cửu Hoa sơn). Ngài viên tịch năm 1623 (110 tuổi), ba năm sau, đệ tử theo di huấn của Ngài mở hàng ra thấy di thể của Ngài vẫn nguyên vẹn như xưa. Nhục thân Ngài được tôn trí lên điện thờ, được tô vàng phủ lên, nên gọi làm Kim tượng. Để đáp ứng nhu cầu lễ bái cho số lượng đông đảo Phật tử, một ngôi chùa khang trang, mang danh hiệu Vạn Niên tự đã được xây dựng thay cho ngôi am nhỏ. Sau đó, vua Minh Sùng Trinh sắc phong Ngài Ưùng Thân Bồ Tát, ban hiệu Bách Tuế cung thay cho tên am Trích Tinh cũ.
6. Phỏng dịch từ câu : “Thủ trung kim tích, chấn khai địa ngục chi môn”, trong bài tựa Xưng tán Bồ Tát Địa Tạng.