Huỳnh Trung Chánh
TIẾNG CHUÔNG CHƯ THIỀN SƯ
Mùa thu năm Kỷ Mẹo (1999), theo chân phái đoàn hành hương tứ đại danh sơn Trung Quốc chùa Khánh Anh, tôi có dịp ghé Hàng Châu và Tô Châu, hai địa danh nổi tiếng thanh lịch tao nhã, đã từng được văn nhân thi sĩ ca ngợi là một chốn thiên đàng hạ giới. Tại Hàng Châu chúng tôi được chiêm bái chùa Tịnh Từ và chùa Linh Ân. Chùa Tịnh Từ là ngôi chùa mà Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ, vị tổ sư thiền và cũng được tôn xưng là đệ lục tổ Tịnh độ tông từng trụ trì, đây cũng là nơi mà Ngài Tế Công hòa thượng đã thị hiện để tùy duyên độ chúng, cái giếng mà theo truyền thuyết là nơi mà Ngài đã được long thần hộ pháp cung cấp gỗ xây chùa một cách mầu nhiệm và điện thờ tượng cao như người thật của Ngài tại chùa thu hút đông đảo thiện tín chiêm bái. Chùa Linh Ân là một thắng cảnh du khách dập dìu : ngôi chùa chính vĩ đại và cổ kính gồm nhiều điện rộng lớn tôn trí những pho tượng uy nghi đẹp đẽ, trong đó có pho tượng bổn sư bằng đồng cao đến 20 thước; trước chùa là ngọn Phi Lai Phong(1), mộït ngọn núi xinh xắn, có đến khoảng 350 tượng Phật và Bồ Tát với nghệ thuật điêu khắc linh động đã được tạc khắp nơi : trên vách đá, bên giòng suối, trong các hang động thâm u..., công trình to tát nầy đã trải dài từ thế kỷ thứ 10 đến 14 mới hoàn thành. So với hai ngôi đại tự nầy, thì chùa Hàn Sơn tại Tô Châu có phần điêu tàn và khiêm tốn, nhưng đây lại là nơi mà lòng tôi đã đón nhận được niềm rung động sâu xa nhất. Nguyên tổ Hàn Sơn cùng với bạn là Thập Đắc là hai vị đắc đạo cao tăng, đã dấu chân tướng trong dáng điệu khật khùng, ăn mặc lượm thượm, dơ bẩn thường lang thang chung đụng khất thực với giới bần cùng hoặc kiếm sống bằng thức ăn thừa thãi dành cho các vị tăng sĩ khác. Một hôm cả hai đang la cà xuống nhà trù chùa Quốc Thanh, núi Thiên Thai tìm thức ăn thừa, bỗng bị vị đại quan đương thời là Lư Khâu bắt gặp. Lư Khâu đã được sư Phong Can tiết lộ bí mật của hai nhà sư khùng nên hành lễ hai vị rất cung kính, khiến cho chư tăng trong chùa ngạc nhiên cùng cực, họ dò la tìm hiểu tông tích Hàn Sơn và Thập Đắc, và từ đó, họ mới kính trọng hai nhà sư khùng. Lộ chân tướng, hai vị rút vào hang núi đá ẩn tu. Về sau, Thập Đắc sang Nhật hoằng hóa và Hàn Sơn thì được thỉnh về trụ trì ngôi chùa Phổ Lợi Pháp Minh. Sau khi Ngài thị tịch, tôn kính bậc tôn sư đạo đức, thế hệ sau đã lập điện tôn trí tranh vẽ Hàn Sơn Thập Đắc thờ phượng và ngôi chùa cũng được đổi tên thành Hàn Sơn tự theo pháp danh của Ngài. Tương truyền thì tiếng chuông chùa Hàn Sơn vang rất xa và có diệu dụng xoa dịu nỗi niềm ưu tư sầu muộn trong lòng người. Thi sĩ Trương Kế đã ghi lại tiếng chuông nầy trong bài thơ bất hủ “Phong Kiều dạ bạc”:
Nguyệt lạc ô đề sương
mãn thiên
Giang phong ngư hỏa
đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn
Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo
khách thuyền.
(Quạ kêu trăng xế trời
sương
Bến Phong đóm lửa đối
buồn mênh mang
Thành Cô Tô, chùa Hàn
San
Nửa đêm chuông vọng
đưa sang khách thuyền)
Bài thơ tương tự như
một thông điệp, chuyên chở tiếng chuông Hàn Sơn vượt thời gian, vượt không gian
đến với lòng người qua bao thế hệ khắp cả năm châu. Có thể nói hàng triệu người
chỉ đọc thơ mà đã rung cảm với tiếng chuông chùa. Ngày nay, chiếc chuông xưa đã
bị cưỡng đoạt mang đi mất, khách hành hương viếng chùa hoài niệm người xưa với
chút luyến tiếc ngậm ngùi. Hòa thượng chùa Hàn Sơn tuổi hạc đã cao, trong con
người của Ngài tỏa ra một phong thái an lạc, tươi mát khó tả. Tôi không ngờ tại
một quốc gia Phật giáo bị kỳ thị, nếp sống tu tập bị kềm kẹp chà đạp mà vẫn có
thể xuất hiện những bậc chân tu như vậy. Hòa thượng ban cho chúng tôi một pháp
từ ngắn ngủi : “Chùa Hàn Sơn đặc biệt chỉ có một tiếng chuông, ngoài ra là một
ngôi chùa tầm thường nhỏ bé, nhưng nhỏ lớn đâu phải là điều quan trọng phải
không quý Phật tử? Chúng ta luôn ý thức rằng tự tâm tức Phật, nên dù tu ở chùa
lớn hay nhỏ, dù điều kiện sinh hoạt thuận hay nghịch, những ai có tấm lòng đều
có thể đón nhận được Đức Phật rào rạt trong tâm.”
Chiếc chuông xưa chùa
Hàn sơn đã mất, nhưng đối với tôi âm vang tiếng chuông vẫn còn đó muôn đời.
Thật vậy, pháp ngữ của hòa thượng không phải là tiếng chuông cảnh tỉnh nhắc nhở
tôi tâm thành tu tập hay sao? Thế rồi bỗng nhiên tôi liên tưởng đến những vị
thiền sư Việt Nam hiện thời, có vị đã sống trong hoàn cảnh tu tập cực kỳ khó
khăn mà vẫn phát huy đạo tràng, gióng tiếng chuông vang dội khắp năm châu để độ
người, tiếng chuông của chư vị đó nào có khác tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
Vị thiền sư mà tôi
tiên khởi nhớ đến là thầy Nhất Hạnh, tức hòa thượng Làng Mai. Thầy là một vị
thiền sư lớn trong hậu bán thế kỷ 20, đã chủ trương đem đạo Phật dấn thân vào
đời, thực tập chánh niệm trong từng hơi thở để chuyển hóa mình và mang an lạc
thương yêu trao cho mọi người, mọi loài. Lối dạy giản dị, thực tiển mà thâm trầm
của thầy, đã thu hút mãnh liệt Phật tử trí thức Việt, đồng thời cũng gây niềm
hứng khởi lớn lao cho giới trí thức Âu Mỹ thao thức mong cầu một nếp sống an
lạc tâm linh. Đệ tử xuất gia của thầy cả ngàn vị, tuy phần lớn là người Việt
Nam, nhưng cũng có rất nhiều vị gốc Âu Mỹ, về phần đệ tử thọ năm giới,
chỉ riêng người ngoại quốc cũng lên đến hàng trăm ngàn người. Ngoài đạo tràng
làng Mai, mà hàng năm đều có những khóa tu thiền liên tục, có khóa đông đến
2,500 khóa sinh tham dự, pháp môn của thầy còn phát huy đạo tràng đến Gia nã
Đại (làng cây Phong), Uùc (làng Sen Búp), Hoa Kỳ (Thanh Sơn Vermont, Lộc Uyển
California)..., hàng năm, thầy còn hoằng hóa khắp các nước Âu Mỹ, Uùc Châu và
cả Trung Quốc nữa. Thầy sáng tác cả trăm tác phẩm, nhiều tác phẩm đã được dịch
hàng vài mươi tiếng ngoại quốc : Pháp, Anh, Ý, Hòa Lan, Na Uy, Đan Mạch, Đức,
Bồ Đào Nha, Ba Lan, Tiệp, Nga, Nhật, Trung Hoa, Thái Lan, Đại Hàn..., nhờ vậy,
pháp ngữ của thầy đã mang niềm an lạc đến khắp nơi trên thế giới, kể cả những
nơi chốn đang oằn oại trong khổ đau, tăm tối, ngụïc tù... Tóm lại, tiếng chuông
an lạc của thầy nhẹ nhàng mà công năng thì vô cùng vô tận.
Vị thiền sư thứ hai mà
tôi liên tưởng đến là hòa thượng Thanh Từ, thiền viện Trúc Lâm, Việt Nam. Thầy
nổi tiếng là bậc chân tu đạo đức, suốt đời thao thức cho sự nghiệp hoằng hóa.
Thầy thoạt phụ trách giảng dạy Phật Pháp cho tăng ni sinh viên tại Phật Học
Viện Huệï Nghiêm, ni viện Dược Sư, Đại Học Vạn Hạnh..., sau đó, thầy lập thiền
viện Chân Không và Bát Nhã tại Vũng Tàu với hoài bảo làm sống dậy thiền tông
Trúc Lâm trong nước. Thế nhưng khi tình trạng đất nước thay đổi, tự do tôn giáo
bị bóp nghẹt, nếp sống tu tập bị đe dọa, thiền viện bị trưng dụng, tăng ni có
kẻ đã phải bỏ đi, thì hoài bảo phát huy thiền tông tưởng chừng như sẽ bị tàn
rụi. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, thầy đã tùy duyên chủ trương lao động
sản xuất để tự túc, tu theo tinh thần “Một ngày không làm, một ngày không ăn”
của tổ Bách Trượng. Tăng ni được chuyển về Thường Chiếu và Viên Chiếu, tận lực
phá rừng, dựng thiền viện, cày sâu cuốc bẩm trên thửa đất khô cằn, bằng những
phương tiện thô sơ, phân bón thiếu hụt..., ngoài ra, lại còn phải tham gia công
tác phường khóm, đào kinh, đấp đường..., yếu đuối như hai sư cô Như Thủy, Hạnh
Châu cũng phải đi dân công cả tháng trời tại chiến khu D. Thời đó, tăng ni đã
phải làm việc ngày đêm mà vẫn thiếu ăn thiếu mặc : ăn độn với khoai sắn, bữa
cơm bữa cháo là chuyện bình thường, còn y áo thì may bằng bao bột chằm vá.. Sức
kham nhẫn, lòng nhiệt thành đạo pháp của thầy là tấm gương sáng cho tăng ni
nương tựa tu học, do đó, tuy nếp sống khổ cực mà phẩm chất lại tăng tiến vượt
bực. Sau nhiều năm gian khổ, hoàn cảnh sống cải thiện lần, nếp sống đạo đức
sáng ngời của thiền viện đã thu hút tăng ni Phật tử tề tựu về tu học,
thầy đã phát triển thêm các thiền viện Linh Chiếu, Phổ Chiếu, Huệ Chiếu và Trúc
Lâm để có thêm đạo tràng độ chúng. Giờ đây, đạo tràng của thầy ngày
càng lớn mạnh, tăng ni đệ tử cả ngàn vị, đệ tử tại gia trong và ngoài
nước có thể lên đến hàng triệu người. Tất cả những tác phẩm và băng thuyết
giảng pháp của thầy đều được Phật tử trong và ngoài nước phát hành rộng rãi, và
đều là những cẩm nang vô giá cho Phật tử noi theo tu tập. Ngoài chương trình
hoằng pháp bận rộn trong nước, theo yêu cầu của Phật tử Việt hải ngoại, thỉnh
thoảng thầy cũng xuất dươngï sang Aâu, Mỹ, Uùc Châu gióng tiếng chuông chùa
Trúc Lâm ở xứ người, gieo hạt giống thiền Trúc Lâm khắp cả năm châu.
Viếng Trung Quốc, quan
sát sinh hoạt Phật Giáo xứ người, tôi chạnh nhớ đến Phật giáo nước nhà, thế rồi
bỗng nhiên niềm cảm khích của tôi đối với tăng ni Việt Nam đã dâng tràn. Trong
tùy bút nầy, tôi chỉ nhắc đến hai vị hòa thượng, nhưng thật ra, trong thâm tâm
tôi muốn đem hết lòng thành hướng về tất cả tăng ni Việt Nam ở trong và ngoài
nước để đảnh lễ tán thán. Bao năm qua, có những vị đã xả thân cho đạo
pháp, có vị bị tra tấn tù đày, cũng có những vị phải ẩn nhẫn nép mình để tùy
duyên hoằng pháp, nhờ vậy, Phật giáo trong nước vẫn tồn tại và lớn mạnh, phát
triển cả về phương Bắc, vùng đất mà trước kia Phật giáo đã bị mai một. Trong
dịp hành hương Aán Độ, tôi có hân hạnh tiếp xúc với một vài tăng ni Việt Nam
trẻ đang du học, tôi đã cảm khích nhận thấy tất cả đều có lý tưởng và tràn đầy
tâm huyết hoằng dương đạo pháp, nên rất mừng cho tương lai Phật giáo nước nhà.
Tôi cũng không thể quên công đức vô lượng của tăng ni ở hải ngoại. Trong thời
gian 30 năm qua, từ hai bàn tay trắng quí tăng ni, đã lãnh đạo tinh thần, hướng
dẫn Phật tử tu học, giữ gìn truyền thống tổ tiên..., và đã xây dựng hơn 300
ngôi chùa, đặt một nền mống phát triển Phật giáo lâu dài khắp năm châu.
Tác giả là một cư sĩ
quê mùa, chỉ chuyên tu tịnh độ, kiến thức về thiền nông cạn nên những điều viết
về nhị vị hòa thượng có điểm nào sai lầm hay thiếu sót, xin bạn đọc niệm tình
tha thứ.
tháng 10.2000
Ghi chú :
1.Phi lai Phong : Là ngọn núi đá trước chùa Linh Aån, trên đó đã được tạc khắc khoảng 300 pho tượng Phật giáo. Núi mang danh là Phi Lai phong, dựa trên truyền thuyết theo đó thì ngày xưa trước chùa chỉ là bãi đất trống, rồi đến một đêm nọ, sau tiếng sấm vang dội, thình lình có ngọn núi lướt gió bay đến đáp xuống đó. Vào thế kỷ thứ 3 có nhà sư Ấn Độ viếng cảnh chùa thấy núi bỗng buột miệng nói rằng “Ở Aán Độ có vách đá y hệt như thế nầy, có lẽ, vách đá Aán Độ đã bay đến đây chăng?”. Do sự tích đó, ngọn núi mới có tên là Phi Lai phong. Văn hào Việt Nam Phan huy Ích(1751-1822) đời Tây Sơn, nhân đi sứ viếng Trung Quốc, viếng chùa Linh Aån (tức Phi Lai tự), đã vịnh thơ và nhắc lại truyền thuyết nầy :
Đề chùa Phi Lai
Hồi chuông thưa thớt
rơi giòng lạnh
Ánh sáng từ bi quyện
chẳng tan
Đêm mọc chùa bay do
tiếng sấm
Núi trào thác đổ ngỡ
sông Ngân
Đạt Ma truyền xuống
giòng chư Phật
Âu Việt nêu cao dấu
diệu thần
Gần đóa mây hồng leo
tới được
Chén quỳnh vạn tuế rắp
dâng lên
Đào phương Bình dịch