Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

20. Quán Âmthổ địa

05 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7511)
20. Quán Âm và thổ địa

TRUYỀN THUYẾT VỀ BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Diệu Hạnh Giao Trinh dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đínhgiới thiệu

20. QUÁN ÂMTHỔ ĐỊA

Ở đâu cũng có một ông thần thổ địa, giống như mỗi địa phương phải có một quan chức an ninh vậy. Nhưng ở chân núi Hoa Oanh tỉnh Tứ Xuyên lại không có thần thổ địa! Tại sao lạ thế? Về chuyện này, ở đây có một câu chuyện khá thú vị được lưu truyền.

Lúc đó, ngôi chùa ở Ngũ Lý Pha dưới chân núi Hoa Oanh đang được trùng tu. Dân chúng ở Ngũ Lý Pha là những Phật tử thuần thành, ai cũng đóng góp tiền bạc mướn vài chục người thợ gạch, thợ nề về tu sửa ngôi chùa. Nhưng chỗ xây cất cách thị trấn rất xa, trên núi lại khó kiếm thức ăn thức uống, họ bèn mời một người tới chuyên lo nấu ăn cho thợ thuyền. Nhưng điều kiện làm việc quá khổ cực, nào gánh nước, nào nấu nướng thật là nhọc nhằn, người nào tới cũng chỉ làm được vài ngày rồi xin thôi vì làm không nổi. Mời người khác đến thay thế chỉ được vài ngày rồi cũng đi.

Một hôm, có một ông lão râu trắng đến tìm vị trưởng lão cai quản việc sửa chữa ngôi chùa, nói rằng mình tự nguyện lên núi nấu cơm cho thợ. Vị trưởng lão nhìn ông lão râu tóc bạc phau phau, tạng người thì gầy còm, với cái tướng ấy thì làm sao gánh nước thổi cơm nổi? Nghĩ vậy, ông bèn can:

– Thưa cụ, việc này không phải là một việc nhẹ nhàng đâu. Phải gánh nước, phải thổi cơm; mà gánh nước thì phải đi thật xa mới có nước. Chùa đã mời nhiều anh thanh niên trẻ tuổi về làm, mà tất cả đều chỉ làm có vài hôm là xin nghỉ hết. Họ than cực quá làm không nổi, vậy thì cụ làm sao chịu được?

Ông lão cười ha hả, trả lời:

– Làm nổi, làm nổi! Ông đừng chê tôi lớn tuổi, cái bộ xương già này còn chịu cực được mà! Mấy ông thợ làm việc mệt nhọc như thế để xây chùa sửa miếu, nếu không cho mấy ông ấy ăn uống đàng hoàng thì họ lấy sức đâu mà làm? Xin trưởng lão an tâm, tôi cam đoan không thua gì bọn trai tráng khoẻ mạnh đâu. Tôi không sợ mệt, dọn cơm chắc chắn không bao giờ trễ nãi!

Trưởng lão nửa tin nửa ngờ nhưng không có lời nào để đối đáp với ông lão. Hơn nữa, người có khả năng thì lại kiếm không ra nên đành chấp thuận vậy.

Ông lão quả nhiên nói không ngoa, làm việc vượt hẳn bọn trai tráng. Ông đi thật xa mới tới cái suối trên núi để múc hai thùng nước thật đầy gánh về, đường đi cũng phải vài dặm, thế mà ông lão da mồi tóc bạc này lại gánh một cách nhẹ nhàng thư thái, đi nhanh như bay, đi đi về về mấy lần là các lu nước trong chùa đã đầy ắp.

Gánh nước xong xuôi ông lại lên đến giữa núi nhặt củi, và chẳng bao lâu lại cõng về một bó củi thật to, thong thả ung dung chồng củi ở trước cửa nhà bếp để phơi nắng cho khô.

Khoảng một giờ trước bữa ăn, ông mới bước vào nhà bếp và thật là thần kỳ, chỉ trong một giờ mà ông đã sửa soạn xong bữa cơm cho vài chục người ăn, tất cả đều được bày biện tươm tất trên bàn, cơm thơm phưng phức, rau thơm lừng lựng, thợ thuyền ăn ngon miệng nên luôn luôn hớn hở tươi cười.

Ông lão là người rất tốt, gặp thợ thuyền lúc nào cũng chào hỏi chuyện trò vui vẻ. Thợ mà có bệnh là ông lập tức lo lắng cho, đem trà đem nước cho uống tận tình. Nhưng ông có một khuyết điểm lớn là hay nói, thích la cà chuyện phiếm với những người thợ trẻ tuổi, mà nói toàn là chuyện nghe có vẻ như khoác lác, thần kỳ, thí dụ lúc còn trai trẻ ông đã một mình đánh đuổi được hơn một chục tên cướp, hay là ông ăn uống rất khoẻ, có lần đánh cá với người ta ông đã tu cả chục cân rượu già một lúc... Ông lại kể đã từng đánh nhau với yêu quỷ, rất nhiều hồ ly tinh đã bị ông đánh cho chạy dài! Ngoài ra ông cũng đã gặp rất nhiều Bồ Tát, thần tiên nữa...

Lúc cao hứng nói chuyện như thế, ông quên cả thời gian. Có một lần, gần tới giờ cơm chiều rồi mà ông hãy còn đứng ba hoa với những người thợ mới vừa bãi việc. Một vài người thấy trời sắp tối mới nhắc rằng:

– Ông bác ơi, ông nhìn xem đã giờ nào rồi, ông mau về nấu ăn đi chứ! Trời đã sắp tối, ông chưa đi thì bao giờ mới được ăn cơm?

Ông lão nói:

– Ờ phải rồi, đúng đấy, trời đã sắp tối, nhưng mấy người đừng lo, tôi về làm một tý là xong ngay!

Quả nhiên, ông lão về đến nhà bếp rồi, chỉ một chút xíu sau là gọi mọi người vào bàn, và trên bàn cơm rau đã dọn ra sẵn sàng. Có người thấy điều ấy lạ lùng bèn hỏi ông lão:

– Ông bác ơi, ông làm sao mà mau quá vậy?

Ông lão đáp:

– Ậy, tại làm xong từ trước lâu rồi!

Tuy nhiên cơm canh còn nóng hổi, còn bốc khói nghi ngút, không thể nào nói là làm xong từ trước được. Tuy nhiên cũng chẳng ai nghi ngờ gì cả, chỉ khen ông lão nhanh nhẹn và ăn cơm một cách khoái chí, vui vẻ.

một lần, ông lão lên núi gánh nước, gánh nước xong liền đi nhặt củi, hôm ấy có thể nói là khó tìm hơn mọi lần nên ông lão đi thật lâu. Khi ông vác củi trên đường về thì đi ngang qua công trường xây chùa, đúng ngay lúc ấy có một người thợ sơ ý, bị một viên gạch từ trên nóc chùa rơi xuống trúng lỗ đầu. Ông lão thấy thế bèn ở lại giúp mọi người săn sóc nạn nhân, nào cõng ông ta đến một túp lều gần đó, vừa xức thuốc vừa băng bó vết thương, bận bịu một lúc thì đã đến giữa trưa, phải có người nhắc nhở:

– Ông bác à, gần giữa trưa rồi mà ông bác vẫn chưa đi làm cơm, bây giờ làm sao cho kịp?

Ông lão chỉ nói:

– Úi dà, giữa trưa rồi, tôi phải đi gấp!

Lúc ấy thợ thuyền đã ngừng tay, cùng nhau đến phòng ăn, thì thấy ông lão đi như bay vượt qua mặt họ. Mọi người nghĩ rằng ông lão đã giúp chăm sóc người thợ bị thương quên cả làm cơm, nên chắc chắn hôm nay sẽ bị ăn trễ và phải chờ đợi. Thế nhưng, kỳ lạ thay, khi họ vừa bước tới phòng ăn thì thấy cơm canh nóng hổi đã dọn sẵn trên bàn, ông lão đứng đó không lộ vẻ gì là cấp bách cả. Điều này làm cho mọi người phải kinh ngạc, thầm nghĩ rằng ông lão này hẳn phải là thần tiên, ông chỉ tới trước có mấy phút mà làm xong mọi sự rồi sao? Có người lại hỏi ông, ông bèn cười ha hả:

– Làm xong từ trước rồi!

Tuy nhiên từ hôm đó trở đi, có một người thợ để ý theo dõi ông lão. Theo dõi ông một lúc thì khám phá ra rằng mỗi ngày ông lão chỉ gánh nước nhặt củi chứ không hề làm cơm, cả ngày ông ở ngoài đường và hiếm khi đặt chân vào nhà bếp. Thế nhưng ngày nào đi làm về cơm nước cũng được nấu nướng xong xuôi chỉnh tề. Người thợ nọ không nhẫn nại được nữa, bèn hỏi thẳng ông lão:

– Ông bác ơi, sao mỗi ngày chỉ thấy ông bác đi gánh nước nhặt củi chứ không thấy nấu cơm, vậy thì cơm canh này ai nấu vậy?

Ông lão bị hỏi bất ngờ chỉ ấp a ấp úng, không nói được câu nào. Người thợ lại hỏi:

– Ông bác, ông nói thật đi, có sao nói vậy, ông đừng có giấu cháu. Ông bác có phải là Bồ Tát không?

Ông lão bị đẩy vào chân tường nên không có cách nào hơn là nói thật:

– Tôi không phải là Bồ Tát! Ôi, thôi được, tôi nói thật cho chú nghe, cơm này không phải tôi nấu, chú muốn biết ai nấu thì đi theo tôi. Nhưng có điều tôi cho chú xem, nhưng bằng bất cứ giá nào chú cũng không được kể lại cho người khác biết. Chú mà nói ra là chết tôi đấy!

Nói xong ông lão đưa người thợ len lén đến nhà bếp, từ khe cửa bên ngoài nhìn vào trong.

Ôi, trong bếp khói bốc mịt mù, quả nhiên có một người đang bận rộn thổi cơm. Ban đầu, khói dày quá nên không nhìn rõ được người đang thổi cơm, một lúc sau khói tan bớt đi thì mới thấy đó là một cô gái rất xinh đẹp, người quấn một cái váy thêu hoa lan, thái rau làm bếp vừa khéo léo vừa nhanh nhẹn.

Người thợ từ bên ngoài đờ người ra, anh ta phải kiễng chân để nhìn cho rõ, quá kinh ngạc nên vô ý động phải cánh cửa khiến cánh cửa mở toang ra. Cô gái thấy có người nhìn trộm bèn chui vào lò lửa đỏ rực mà biến mất. Ông lão ngây người ra một lúc rồi than rằng:

– Ôi chao, chú nhìn trộm đủ rồi, can chi mà chú làm bật tung cánh cửa vậy? Bây giờ khổ thân tôi rồi! Bồ Tát Quán Âm bắt tội tôi, tôi phải làm sao đây?

Thì ra Bồ Tát Quán Âm biết chùa đang tu sửa xây cất mà thiếu người nấu cơm, vấn đề trở nên nan giải, vì thế Ngài âm thầm đến để giúp đỡ. Ngài bàn tính trước rất kỹ với thổ thần địa phương, chia việc ra minh bạch: thần thổ địa thì gánh nước nhặt củi đồng thời giữ bí mật cho Ngài ở trong nấu bếp. Nhưng vị này lại quá thích ba hoa nên đã để lộ bí mật.

Khi người thợ đi khuất rồi, Ngài Quán Âm mới từ lò lửa bước ra, trách thần thổ địa rằng:

– Ông gánh nước thì lo gánh nước, ta đã dặn ông không được nói rùm beng lên mà ông không nghe lời, còn đem người lạ đến nhìn trộm là nghĩa làm sao?

Bồ Tát nói đến đây, bèn dùng cái phất trần đuổi muỗi quét một cái, quét thần thổ địa bay ra xa tới hơn chục dặm, không cho ông được làm việc chung với Ngài nữa.

Vì thế, chùa được trùng tu xong, ở núi Hoa Oanh, nguyên một vùng trong vòng hơn mười dặm không có thần thổ địa!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28195)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6689)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8788)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9318)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15388)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8257)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8684)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16734)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26979)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18682)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15657)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22541)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19463)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18349)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16204)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25638)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12883)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37863)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20091)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10714)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10031)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10561)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10391)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11041)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15229)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10843)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19694)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11709)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10784)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11246)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10108)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10564)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11557)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10893)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11405)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12160)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11065)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13022)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17771)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15238)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15712)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11002)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12117)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11045)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21848)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12098)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9181)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20175)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17259)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10103)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant