Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Nội dung

08 Tháng Năm 201100:00(Xem: 6589)
2. Nội dung

THIỀN LÀ GÌ?
Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2002

CHƯƠNG HAI: NHƯ HUYỄN

II. NI DUNG

1.) T Lý Nhân-duyên đến Tánh Không

Về mặt tc đế, Đức Phật thuyết giảng lý Nhân-duyên giải thích sự thành hình của tất cả các pháp, đồng thời bài bác 4 luận thuyết của ngoại đạo đương thời:

1- Thuyết t sanh: Các pháp được sanh ra từ chính bản thể của nó.

2- Thuyết tha sanh: Các pháp sanh từ bản thể của những pháp khác.

3- Thuyết cng sanh: Pháp này nhờ pháp kia mà sanh và ngược lại.

4- Thuyết vô nhân sanh: Các pháp ngẫu nhiênhiện hữu, không cần có điều kiện hay nguyên nhân nào.

Lý Nhân-duyên cắt nghĩa sự thành lập của các pháp là do nhân và duyên kết hợptác động. Trong đó, nhân yếu tố quyết định, không thể thiếu; duyên  là những điều kiện hỗ trợ. Ví dụ: Để có cây lúa (một pháp), phải có hạt lúa là nhân, cùng kết hợp với các duyên là đất, nước, ánh sáng mặt trời, người nông phu... Từ lý Nhân-duyên, Đức Phật triển khai thành lý Nhân-quả thế gianxuất thế (tức Tứ Diệu Đế) cho các vị Thanh Văn, và Thập nhị nhân duyên cho các bậc Duyên Giác. Tu theo con đường này, hành giả phá được ngã chấp, cuối cùnggiải thoát khỏi luân hồi sanh tử. Chúng ta thường gọi đây là con đường của Nhị thừa.

Đối với Bồ-tát Đại thừa, các Ngài do quán triệt lý Nhân-duyên đưa đến nhận thức đúng đắn về các pháp. Từ những pháp hữu hình đến vô hình (không thấy được bằng mắt thường như không khí), từ hiện tượng vật chất đến tinh thần (cảm thọ, nhận thức...), chúng đều không thể tự mình hình thành mà phải nhờ nhân và duyên sanh ra. Đến lượt các nhân duyên ấy, vì chúng cũng là các pháp, nên cũng phải cần các nhân duyên khác tạo nên. Từ đó, chúng chuyển biến sinh diệt, làm nhân duyên cho pháp này rồi lại là quả của những nhân duyên khác, không biết đâu là bắt đầu và đâu là tận cùng. Đức Phật gọi là “trùng trùng duyên khi.

Như vậy, các pháp đều không phải thật không và cũng không thật có. Chúng không thật là không, vì con người có thể cảm nhận chúng bằng giác quan; chúng không thật có vì chúng do các pháp khác tạo thành, nên không có tự thể. Vì thế, tánh của chúng là Không, nhờ duyên hợp nên giả có. Đây là tinh thần của hệ Bát-nhã, hiển bày Tánh Không  của tất cả các pháp. Dùng trí tuệ Bát-nhã quán chiếu tường tận thật tánh các pháp, thấu triệt Pháp tánh, Bồ-tát phá được ngã chấppháp chấp, cả pháp thế gian lẫn pháp xuất thế gian. Nhà Phật gọi là con đường của Bồ-tát thừa.

2.) Tánh Không và Lý Như-Huyn

Đức Phật tuyên bố, vạn pháp đều như huyễn, để nói lên tính bất thực của chúng. Đó là đứng trên bình diện chơn đế, nhìn vạn pháp bằng cái nhìn “đương th tc không.

Đối với các nhà khoa học, thuyết Big Bang là một giả thuyết táo bạo và vĩ đại nhằm giải thích sự thành lập của vũ trụ. Nhưng trong giáo lý nhà Phật, vũ trụ không chỉ trải qua một chu kỳ thành - tr - hoi - không, mà đã - đang và sẽ tiếp diễn vô lượng chu kỳ như thế, không có khởi đầu cũng không có kết thúc - tin tin vô thy, hu hu vô chung. Thế giới hiện tượnghữu vi duyên khởi, sanh sanh diệt diệt tương duyên tương tác. Không pháp nào trong vũ trụ lại đứng yên, mà luôn luôn chuyển động đổi mới. Ngay cả phần vĩ mô nhất là toàn bộ vũ trụ, cũng thay đổi mỗi ngày. Hình thái của vũ trụ, mà một số nhà Vật lý học hàng đầu thế giới đã phác hoạ trong những công trình thực nghiệm và tư duy, thật ra chỉ là một phần rất nhỏ những cảnh giới mô tả một cách tuyệt vời trong Kinh Hoa Nghiêm. Tuy nhiên, từ những hạt Quartz (được cho là yếu tố nhỏ nhất cấu tạo thế giới) cho đến toàn thể thực tại trùng trùng duyên khởi, không có pháp nào hiện hữu mà không được tạo thành từ những nguyên nhân khác. Do vậy, tất cả chỉ là huyn mng, dù là thế giới vi mô hay vĩ mô.

Con người chúng ta, từ trước đến giờ đã trải qua bao kiếp sống; và từ giờ trở về sau, sanh sanh tử tử vẫn tiếp nối không dừng. Gọi là “tử” nhưng thật sự, chỉ là sự thay đổi của thân từ dạng thái này sang dạng thái khác, từ thân tin m (con người hiện tại) chuyển qua trung m (lúc lìa đời); khi đủ duyên lại gá vào thân hu m, tiếp tục một chu kỳ sanh tử khác với một hoàn cảnh chánh báoy báo khác. Đáo cùng, nhắm mắt lìa đời không phải là thật sự xa lìa trần tục, mà chỉ là tạm thời ngưng cuộc sống ở nơi này để tiếp nối cuộc sống nơi kia. Cho nên, không có thật sanh cũng không có thật diệt, tất cả chỉ trong huyễn mộng mà thôi.

Điều lầm lẫn nhất của con ngườichạy theo hình tướng mà quên bản chất, chạy theo Sc mà quên tự tánh Không, nên không có sự hiểu biết như thật về tất cả các pháp. Sc  là do đủ duyên mà hiện hữu nên là Huyn,Không bản thể nên Như. Huyễn từ Như mà có, biểu hiện tác dụng; muốn thâm nhập Như thì phải từ Huyễn mà vào. Nói cách khác, Sắc là dụng của Không, Không là thể của Sắc; khi đủ duyên thì khởi ra Sắc, khi duyên tan thì Sắc trở về Không. Do vậy, Huyễn không bao giờ rời Như, Sắc chẳng thể nào lìa Không được. Hiểu điều này, ta sẽ thấy rõ ràng Ta-bà là Tịnh-độ, phiền não tức Bồ-đề. còn

hiện tượng không thể nào tách rời khỏi bản chất và ngược lại, nên các vị Thiền sư ngộ đạo là ngộ ngay s hu, từ đó thấu thể cả s vô. Các Ngài thấy rõ vạn pháp đều vô thường theo thời gianduyên sinh trên bình diện không gian, nên chúng hiện hữu trong sự chuyển động và giả hợp. Nhưng trong lòng những chuyển động và giả hợp của sự hữu, luôn luôn hiện diện đặc tính bất biến và thống nhất của sự vô. Mặt khác, do con người luôn khởi niệm duyên theo trần cảnh, tâm không lúc nào dừng trụ, nên các pháp biểu hiện bên ngoài đều vô thường. Trái lại, các Ngài trở về trạng thái như của tâm, nên thấy các pháp đều Như. Có thể nói, tâm tịnh thì thế giới tịnh, tâm Như các pháp Như, tâm bình thế giới bình. Các Ngài vẫn ở trong cuộc đời làm lợi ích cho chúng sanh, ở trong thường tục mà vẫn siêu tục, tự tại an nhiên trước mọi khó khăn chướng ngại, ngay cả trước tử thần !

Bài Minh của Tổ Qui Sơn có đoạn:

 Huyn thân mng trch

 Không trung vt sc

 Tin tế vô cùng

 Hu tế ninh khc.

Thân huyễn trong nhà mộng, tất cả vật sắc đều ở trong hư không. Vật sắc ấy, mé trước là vô cùng, còn mé sau có ai biết được ? Thân chúng sanh là huyễn, thân Thánh nhân cũng huyễn, sống trong nhà mộng tam giới; nhưng phàm phu si mê chấp thân là thật nên không từ một thủ đoạn nào để bảo vệ và tô bồi cho cái ngã, đôi khi còn nhân danh Thượng Đế tiến hành những cuộc thánh chiến đẫm máu. Còn các bậc Thánh nhân, tuy mang thân huyễn mà tâm vẫn ở trong Như, vì thấu rõ lý Sắc - Không. Vũ trụ vạn phápvô thủy vô chung, nhưng luôn hiển hiện một chân lý ngàn đời: Tất cả vật sắc, lúc đủ duyên thì giả hợp thành sự hữu, khi hết duyên lại trở về sự vô. Sự hữu (Sắc) là giả tướng, biểu tướng; sự vô (Không) là tự thể, bản chất. Cả hai không thể tách rời nhau, cũng như giữa tâm và cảnh, giữa tạo chủ và tạo vật, đều bất khả phân ly như thế.

Trang t Nam Hoa kinh kể chuyện Trang tử nằm mộng thấy mình hóa bướm, khi tỉnh dậy không biết “Chu là bướm hay bướm là Chu. Câu chuyện này có một ý nghĩa rất sâu sắc, nhằm diễn tả một thực tại ly ngôn ngữ. Đây là trạng thái vô tâm, hòa nhập nhất như giữa tâm và cảnh, giữa mình và vạn pháp. Khi tâm hoàn toàn tĩnh lặng, vẫn thấy nghe hiểu biết mà không xen tạp một ý niệm nào, chúng ta sẽ nhận ra vũ trụ rất nhiệm mầu vi mật, không thể đem thức tình tầm thường mà đo được. Chúng ta cũng nhận ra rằng, cõi giới của mình là cõi phàm - Thánh đồng cư, như cõi Cực lạc của Phật A-Di-Đà. Không phải tìm Niết-bàn ở một nơi nào xa lạ, mà chỉ ngay mảnh đất hiện tại bây gi và đây.

Một điều quan trọng cần lưu ý, chúng ta đừng bao giờ hiểu lầm Đức Phật thuyết lý Như-Huyễn là phủ nhận sự hiện hữu của các pháp. Ngài không từ chối thế giới hiện thực mà nhằm phát sinh tri kiến như thật, để chúng ta nhận ra các pháp đang là. Thiền sư Từ Đạo Hạnhbài kệ soi sáng ý nghĩa này:

  Tác hu trn sa hu

 Vi không nht thiết không

 Hu không như thy nguyt

 Vt trước hu không không.

 Tạm dịch:

 Chp có, thy đều có

 Chp không, tt c không

 Có - Không, trăng đáy nước

 Ch chp Có cùng Không.

Nếu cho mọi pháp là thật thì chúng đều thật có - đây là cực đoan thứ nhất; nếu chấp tất cả đều không, thì chúng sẽ thật không - cực đoan thứ hai. Cả hai cực đoan, chấp thường và chấp đoạn, đều không hội được liễu nghĩa thượng thừa. Thường và đoạn, có và không ví như bóng trăng dưới nước, nhìn thì thấy nhưng không vớt lên được, nên không thật có cũng chẳng thật không. Nhà Phật phủ nhận cả chấp thường lẫn chấp đoạn mà theo con đường Trung đạo, tinh thần của Lý Như Huyễn.

3.) Như Huyn và Chân Không

Theo giáo lý Phật Đà, chúng sanh do nghiệp thức dẫn lôi, luân hồi trong ba cõi:

1. Cõi Dc: Chúng sanh còn đam mê ngũ dục, thân thô tâm thô. Tùy nghiệp thiện ác mà vào ra trong sáu đường: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, A-tu-la, Người, Trời. Cảnh giới thuần khổ là Địa ngục, nửa khổ nửa vui là Người, thuần vui là Trời gồm 6 cõi Trời Dục, dành cho người tu phước báo hữu vi.

2. Cõi Sc: Đây là cảnh giới của người tu Thiền định, gồm bốn bậc: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Thân tướng tuy vẫn là sắc chất nhưng là vật chất vi tế, rất cao lớn đẹp đẽ, không còn giới tính nam nữ. Thân vi tế, tâm thiền định.

3. Cõi Vô Sc: Gồm Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ở cõi này, chúng sanh tự tại vô ngại, dùng “thân định quả” tức lấy sức Thiền định làm thân; không còn thân sắc chất nhưng còn tâm phân biệt vi tế.

Các cõi trên có chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức khác nhau, nhưng tất cả không ngoài lý Như-Huyễn. Bởi vì, những gì có hình tướng, dù thân thô hay tế, dù tâm Thiền định mà còn một niệm nhỏ nhiệm, cũng thuộc về sinh diệt, cũng đều là Huyễn.

Mặt khác, những loài chúng sanh khác nhau có nhận thức về thế giới khác nhau. Như trên cùng một dòng sông, loài người nhìn thấy toàn nước, con cá thấy đó là thế giới cho nó sống và bơi lội, ngạ quỷ thấy toàn là máu, chư Thiên lại cho là một dải lưu ly. Cho nên, thế giớicon người tưởng-tri thức-tri được, không phải là thế giới tồn tại khách quan ngoài tâm thức, mà chính do tâm thức biến hiện ra. Duy thc s biến duy tâm s hin, vì thế tất thảy đều là mộng ảo. Như khi nằm mộng, ta thấy rõ ràng có người có cảnh, tâm ta cũng biến thiên theo cảnh theo người; đến lúc tỉnh giấc, những gì xảy ra trong chiêm bao có phải là thật đâu? Đó là tiểu mộng, còn bao nhiêu năm cuộc đời ta, là một trường đại mộng, cũng qua đi như một giấc chiêm bao. Thuần Vu Phần nằm ngủ dưới gốc cây hòe, mơ thấy mình thi đỗ làm quan, được vua gả công chúa; sau đó nhận lệnh vua đánh giặc, thất trận, công chúa chết, vua bắt tội xử đi đày. Giật mình tỉnh giấc mới biết chỉ là giấc mộng, trên cành cây ở hướng Nam chỉ có một ổ kiến. Thật là:

 Gic Nam-kha khéo bt bình

Bng con mt dy thy mình tay không.

Biết cuộc đờimộng huyễn, không phải để chúng ta cam phận, chấp nhận khổ đau; càng không phải để chúng ta chán nản buông trôi, mặc dòng đời xô đẩy. Chúng ta ý thức mình đang hiện hữu nơi cảnh giới này cùng mọi người, là do nghiệp thức cộng trụ kết hợp với biệt nghiệp của từng người. Biệt nghiệp thì không ai giống ai, nên số phận mỗi người mỗi khác; nhưng cộng nghiệp người không khác nên sống chung một môi trường, chịu chung một hoàn cảnh thiên tai dịch họa... Và rồi, dù chánh báo hay y báo, dù biệt nghiệp hay cộng nghiệp, tất cả đều là huyễn, vậy thôi!

Dù sao đi nữa, ở cõi người có khổ có vui mới dễ làm ta thức tỉnh, tinh tấn tu hành dễ được thoát khổ. Nếu thuần khổ như Địa ngục, đói khát như Ngạ quỷ hoặc si mê như Súc sanh, làm sao có cơ hội tỉnh giác? Ngược lại, cõi trời quá vui quá sướng, chúng sanh đắm chìm trong đó còn ước ao gì hơn nữa; đến khi hết phước hiện tướng đọa đày, thức tỉnh thì đã muộn. Chư Phật Bồ-tát thương xót chúng sanh vô minh tăm tối, nên bằng mọi phương tiện cứu độ muôn loài thoát khỏi ngục tù tam giới.

Thiền sư Thanh-Đàm Minh-Chánh nói:

 Công danh cái thế màn sương sm

 Phú quý kinh nhân gic mng dài.

 Chng hiu bn lai vô nht vt

 Công phu lung ung mt đời ai.

công danh cao tột thế gian hay phú quý đến độ người người đều khiếp sợ, cũng chỉ như màn sương buổi sớm hay giấc mộng đêm qua, có gì là thật. Vậy thì, con người phải định vị mình ở nơi đâu ? Đây là câu hỏi thiết yếu mà mỗi chúng ta cần tự đặt ra và tự giải đáp.

Đối với người thế gian, “công phu” kiến thức kinh nghiệm học hỏi thu thập được trong quá trình sống và làm việc, là sự nghiệp công danh, là thành công trong xã hộihạnh phúc trong gia đình. Mọi người hầu như đem hết tâm lực cốt đạt được những điều mong ước đó. Đối với hàng xuất gia, “công phu”tích lũy một số kiến thức Phật học và thế học, có trú xứ ổn định, có tăng thân thanh tịnh hòa hợp cùng giúp đỡ nhau tu hành, ngày càng giảm thiểu phiền não khổ đau ở thân và tâm. Tuy nhiên, cả hai khía cạnh vật chấttinh thần nêu trên chưa phải là hạnh phúc tột cùng, miên viễn và đích thực. Đời tu chỉ thật sự có ý nghĩa khi hiểu được và đạt được mục đích: Trở về với con người tht của chính mình và sống bằng con người thật ấy. Muốn không để “luống uổng một đời”, người tu phải quán triệt tư tưởngvô nht vt, danh từ của Lục Tổ Huệ-Năng. 

Chúng ta nhớ lại câu chuyện ngộ đạo của Lục Tổ: Khi Ngũ Tổ Hoằng-Nhẫn gọi Ngài vào phương trượng giảng kinh Kim Cang, Ngài vẫn còn là cư sĩ làm việc dưới nhà trù. Trong kinh có đoạn Đức Phật trả lời câu hỏi của Ngài Tu Bồ Đề: “Làm sao an tr tâm?. Phật dạy rằng: “Không nên tr vào sc mà sanh tâm; không nên tr vào thanh, hương, v, xúc, pháp sanh tâm. Phi ngay nơi ch không tr mà sanh tâm y. Tâm y tức tâm Vô thượng Bồ-đề. Lời dạy của Đức Phật, mới nghe chúng ta chỉ hiểu là phải đặt trọng tâm ở chỗ không dính mắc với sáu trần. Vì sao không nên dính mắc vào trần cảnh ? - Vì trần cảnhduyên sinh giả hợp, tự tánh của chúng là không. Nhưng nếu khéo nhìn sâu hơn, hành giả phải tự nghi vấn: “Nếu tt c các pháp đều Không, thân tâm cũng Không, vy cái gì gii thoát ? Cái gì rõ biết Tánh Không ? Cư sĩ Huệ-Năng là một bậc pháp khí thượng thừa, nên từ lời dạy ấy, Ngài nhận ngay ra tâm thể thường hằng của chính mình. Tâm này lặng lẽ, không có hình tướng nên không thuộc về ; nhưng nó hằng tri hằng giác, biết một cách thấu thể mọi sự vật hiện tượng trong tận cùng pháp giới, nên không thuộc về Không. Vì vậy, nó được gọi là Chân - Không, cũng là Phật tánh, là Pháp thân, là Bản lai diện mục, là tâm Thiền...

Bằng tâm Thiền, các Ngài nhìn toàn thể sự vật bằng cái thấy như th, không xâm phạm đến bản vị của các pháp mà vẫn hiểu một cách tột cùng bản chất của chúng. Đức Phật gọi đó là Pht tri kiến - Cái thấy biết Phật. Có cái thấy biết này, các Ngài khởi phát diệu dụng không thể nghĩ bàn. Chính là Chân Không  sinh Diu Hu. Chân Không là tâm thể, Diệu Hữu là tâm dụng. Nhờ Diệu Hữu, các Ngài có vô số phương tiện quyền xảo để giáo hóa chúng sanh. Các Ngài dọc ngang tung hoành, làm ngược làm xuôi, đôi lúc có những hành động ngôn ngữ vượt thường mà người đời không đoán định nổi. Bàng Long Uẩn khi liễu đạt lý Thiền, đem hết của cải đổ xuống sông. Thiền sư Đơn Hà đốt tượng Phật ở chùa Huệ Lâm, làm Viện chủ Hướng “rụng cả lông mày”. Thiền sư Nam Tuyền giơ con mèo lên, cả đại chúng không ai nói được, Ngài đành chém con mèo. Gia tài sự sản bị vất hết, tượng Phật bị đốt, con mèo bị chém..., tất cả vì ai? Tất cả chuyện này có ý nghĩa gì? Cũng như Đức Phật, đã thành Bậc Chánh Giác nhưng mỗi ngày Ngài đều tọa thiền. “Na-Già thường ti định, Ngài đạt định trong mọi thời khắc, mọi nơi chốn, cần chi phải tọa thiền? Đây là những điều chúng ta cần suy gẫm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10416)
Tập Kỷ Yếu này ghi nhận lại những cảm nhận, những kỷ niệm, những hình ảnh sinh hoạt của Trường Hạ Minh Quang như một món quà tinh thần kỷ niệm cuối khóa cho mọi hành giả tham dự khóa tu... Giáo Hội ÚC Châu
(Xem: 9522)
Em muốn nói chuyện với tôi, bởi vì trong thâm tâm, em chưa mất hẳn niềm tin nơi tất cả chúng tôi. Và tôi muốn nói chuyện với em, bởi vì có lẽ tôi là một trong những người chưa chịu đầu hàng cuộc đời... Nhất Hạnh
(Xem: 9225)
Toàn bộ mục tiêu của tôn giáophổ cập từ ái và bi mẫn, nhẫn nhục, bao dung, khiêm tốn, tha thứ... Dalai Lama
(Xem: 31199)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 20689)
Những bài nói chuyện trong tập sách này được đề cập đến những vấn đề rất tổng quát của tâm, nhân dịp Lạt ma Yeshe đi thuyết giảng vòng quanh thế giới lần thứ hai cùng với Lạt ma Zopa...
(Xem: 23069)
Thơ Văn Lý Trần - Nhà xuất bản: Khoa Học Xã Hội 1977, Nhiều Tác Giả
(Xem: 17660)
Đức Phật nêu lên tánh không như là một thể dạng tối thượng của tâm thức không có gì vượt hơn được và xem đấy như là một phương tiện mang lại sự giải thoát... Hoang Phong dịch
(Xem: 11597)
Mục đích có được thân người quý báu này không phải chỉ để tạo hạnh phúc cho chính mình, mà còn để làm vơi bớt khổ đau, đem lại hạnh phúc cho người. Đó là mục đích đời sống.
(Xem: 21328)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 8717)
Đại ý bài kinh đại khái nói về việc ngài Anan thưa hỏi đức Thế Tôn về việc phụng sự Phật phápkiết tường hay hung tai? HT Thích Minh Thông
(Xem: 22096)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 13281)
Cuốn sách Cuộc Tranh Đấu Lịch Sử Của Phật Giáo Việt Nam được Viện Hóa Đạo GHPGVNTN xuất bản vào năm 1964... Nam Thanh
(Xem: 38423)
Tuyển tập 115 bài viết của 92 tác giả và những lời Phê phán của 100 Chứng nhân về chế độ Ngô Đình Diệm
(Xem: 13340)
Nhà Sư Vướng Lụy hay truyện Con Hồng Nhạn Lưu Ly - Nguyên tác Tô Mạng Thù; Bùi Giáng dịch
(Xem: 24224)
Lược Sử Phật Giáo Trung Quốc (Từ thế kỷ thứ I sau CN đến thế kỷ thứ X) - Tác giả Viên Trí
(Xem: 14924)
50 năm qua Phật Giáo chịu nhiều thăng trầm vinh nhục, nhưng không phải vậy mà 50 năm tới Phật Giáo có thể được an cư lạc nghiệp để hoằng pháp độ sinh...
(Xem: 24539)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 10138)
Những Điều Phật Đã Dạy - Nguyên tác: Hòa thượng Walpola Rahula - Người dịch: Lê Kim Kha
(Xem: 17578)
Quyển 50 Năm Chấn Hưng Phật Giáo Việt Nam do HT Thích Thiện Hoa biên soạn là một tài liệu lịch sử hữu ích.
(Xem: 22646)
Phật Giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của nó luôn luôn gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc... Trần Tri Khách
(Xem: 22601)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7478)
Là người mới bắt đầu học Phật, tôi nhận thấy quyển sách nhỏ này thể hiện tốt tinh thần vừa giáo dục vừa khai sáng...
(Xem: 14043)
Kinh thành đá Gia Na là thạch kinh có quy mô lớn nhất trên thế giới, với các tảng đá ma ni trên đó khắc lục tự chân ngôncác loại kinh văn, là thắng tích văn hóa hiếm thấy.
(Xem: 27000)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 26759)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 19806)
Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
(Xem: 20774)
Bát chánh đạocon đường tâm linh có khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính...
(Xem: 21312)
Đọc Bát Đại Nhân Giác để trải nghiệm các giá trị cao siêu trong từng nếp sống bình dị, theo đó hành giả có thể tự mình mở mắt tuệ giác, trở thành bậc đại nhân...
(Xem: 13192)
Do sức ép của công việc, sức ép của mọi thứ trong xã hội đã làm thay đổi cấu trúc đời sống sinh hoạt gia đình truyền thống mà các sắc dân ở các nơi đã phải đối diện.
(Xem: 13323)
Thật không ngoa chút nào, khi tạp chí Chùa cổ Bình Dương cho rằng, chùa Tây Tạng là "dấu ấn đầu tiên của Mật tông”.
(Xem: 29773)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 13868)
Tây Tạng là quê hương của những bậc thánh nhân, những vị bồ tát, những đạo sĩ sống cô tịch và độc cư nơi rừng sâu núi thẳm để tu tập thiền định.
(Xem: 13907)
Đến đây, nếu để ý bạn sẽ thấy gần như mỗi người Tây Tạng đi đâu cũng xoay trên tay bánh xe mani (một ống đồng xoay trên một trục thẳng đứng)...
(Xem: 32377)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 23973)
Kiến thức là gì? Nó đã được thu thập hàng nghìn năm qua hằng bao kinh nghiệm, tích trữ trong trí não như kiến thức và ký ức. Và từ ký ức đó, tư tưởng (thought) phát sanh.
(Xem: 29718)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31470)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 34150)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 18411)
Tu sĩ vẫn không quay lại, đôi bàn tay với những ngón tay kỳ diệu bật lên dây đàn, mắt nhìn ra khung cửa tối - biển âm thanh xao động rồi ngưng lắng một lúc...
(Xem: 19456)
Tất cả đang im lặng trong chàng. Triết Hựu có thể nghe được, trong một lúc mười muôn triệu thế giới đang dừng lại, chỉ còn một hơi thở và một trái tim.
(Xem: 32761)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 18687)
Thuở xưa, tại khu rừng Daliko bên bờ sông Đại Hằng, có cây bồ-đề đại thọ, ngàn năm tuổi, vươn lên cao, xòe tán rộng, che phủ cả một vùng.
(Xem: 30768)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 16104)
Trưởng giả Tu-đạt-đa (cũng gọi là Tu-đạt) là một nhà từ thiện lớn, luôn vui thích làm những chuyện phước đức, bố thí. Ông thường cứu giúp những người nghèo khó...
(Xem: 26710)
Chùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ.
(Xem: 32553)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39301)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40394)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 19263)
“Tỉnh thức trong công việc” của tác giả Michael Carroll là tuyển tập nhiều bài viết ngắn cùng chủ đề, được chia làm bốn phần, mỗi phần đề cập đến các phương diện chánh niệm trong kinh doanh.
(Xem: 19264)
Nằm giữa mây mù và rừng nguyên sinh hoang rậm, cả hệ thống những thiền viện, am, chùa cổ hiện ra - với toà ngang dãy dọc, với ngôi tháp đá tảng xanh 7 tầng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant