Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Khái Niệm Về Vọng

08 Tháng Năm 201100:00(Xem: 6593)
1. Khái Niệm Về Vọng

THIỀN LÀ GÌ?
Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2002

CHƯƠNG BA: TRI VỌNG

I. KHÁI NIỆM VỀ VỌNG

Các Thiền sinh đang áp dụng pháp môn Tri vọng, trước tiên cần biết rõ thế nào là vọng, thế nào là tinh thần Tri- vọng. Hiểu thật tường tận, công phu của chúng ta mới có kết quả như ý.

Vọng hư dối, không thật có. Đối với thân, Phật dạy đó là do tứ đại hợp thành. Chất cứng như răng, tóc, móng, da, thịt, gân, xương là đất; chất lỏng như máu, mủ, mồ hôi, nước mắt, nước bọt là nước; chất nóng như hơi ấm trong người là lửa; chất động như hơi thở ra vào là gió. Các thành phần trên gọi là tứ đại bên trong (sở tạo), phải vay mượn từ tứ đại bên ngoài (năng tạo) mới có: mượn thức ăn và nước uống là đất và nước; mượn hơi ấm từ mặt trời là lửa; mượn không khí để thở là gió. Mượn vào một thời gian phải trả ra. Tựu trung, sự sống chỉ là vay và trả. Con người mạnh khỏe khi việc vay trả điều hòa thông suốt; nếu có trở ngại ở bất cứ giai đoạn nào, bệnh tật sẽ phát sinh. Ngày nay chúng ta đã biết, đơn vị cấu tạo thành thân là tế bào; nhưng tế bào cũng được tạo nên từ nhiều yếu tố, trong đó có những đoạn rất nhỏ của phân tử DNA nằm trong nhân, gọi là Gen. Bản đồ Gen người được công bố chi tiết vào ngày 12/2/2001 cho thấy một điều đáng ngạc nhiên: Tất cả những đặc điểm về hình dạng, bệnh tật, chức năng của toàn bộ cơ thể con người chỉ được quyết định bởi 30.000 - 40.000 gen, số gen tương đương với gen của một con ruồi giấm! Như vậy, rõ ràng tấm thân mà lâu nay chúng ta tôn quý, nâng niu, đáo cùng chỉ là tập hợp của những yếu tố vật chất nhỏ nhoi và mong manh. Do nó không chắc thật, không có chủ thể, không nương cậy được vĩnh viễn, nên Phật gọi nó là “Vọng thân”. 

Suy xét tận tường bản chất của tâm, ta càng thấy rõ vấn đề. Những tư tưởng, tình cảm, ý niệm lưu chuyển trong trí óc, lâu nay chúng ta cho đó là tâm mình. Chính vì nhận tâm ấy là thật có, là mình, nên luôn luôn cho điều mình nghĩ là đúng, ai nghĩ khác là sai. Từ đó sinh ra tranh chấp cãi vã để giành phần thắng về mình. Đây là nguyên nhân của những xung đột trong gia đình, xã hội, của những cuộc chiến tranh tôn giáoý thức hệ, gây biết bao đau thương tang tóc cho hàng triệu gia đình. Nhưng xét lại, những tư tưởng tình cảm ấy thoạt biến thoạt hiện không chừng, lúc đến không biết đến từ đâu, khi đi cũng chẳng hiểu đi về phương nào. Bây giờ ta nghĩ thế này, lát sau có thể đổi ý; bây giờ ta cảm thấy vui, lát sau đã có thể nổi giận rồi. Nếu cho cái nghĩ này cái vui này là mình, thì cái nghĩ kia, cái buồn nọ là ai? Mỗi ngày chúng ta trải qua biết bao nhiêu tâm trạng, nghĩ suy biết bao điều, chẳng lẽ trong mỗi chúng ta lại có nhiều người khác nhau đến vậy? Cho đến những kiến thức, kinh nghiệm về chuyên môn và đời sống, dù là kiến thức bác lãm, cũng chỉ là vay mượn tom góp từ người khác, có gì là thật mình ? Đức Phật thấy rõ điều này, nên dạy tất cả đều là “Vọng tâm”.

Các pháp bên ngoài, không có vật nào tự nó thành hình, mà phải nhờ những yếu tố không phải nó kết hợp lại để thành nó. Các pháp cũng không bao giờ dừng trụ, bất biến, mà luôn luôn thay đổi, sinh sinh diệt diệt trong từng sát-na. Sự hiện hữu của chúng như vậy chỉ là biểu tướng chỉ do duyên hợp mà có, và tồn tại trong sự chuyển động, sự biến đổi vô thường. Cho nên, đó là “Vọng cảnh”.

Trong cuộc sống thường nhật, nếu thấu triệt được tính chất hư dối của thân-tâm-cảnh, chúng ta có thể phần nào an lạc và bớt xao động trước mọi chuyện buồn-vui, thăng-trầm, được-mất. Do biết thân là vọng, chúng ta không mất nhiều thời gian và công sức để cung phụng, tô điểm cho nó, hay thỏa mãn mọi đòi hỏi dù quá đáng của nó. Đời sống của chúng ta trở nên giản dị và thong dong, ngày ba bữa cốt để no bụng đói, đêm một giấc chỉ để lấy lại sức khỏe sau một ngày làm việc. Tất cả tài sản, quyền lợi và khả năng sẵn có chỉ là những phương tiện để chúng ta giúp mình giúp người. Khi đau ốm hay gặp tai nạn, chúng ta không buồn lo sợ hãibiết thânvô thường, không có chủ thể, cũng là đối tượng nhận chịu những nghiệp báo mình đã gây ra từ trước. Đến khi hấp hối, chúng ta không hoảng hốt và đắm luyến thân, nên dù chưa được tự tại trong sinh tử, cũng có thể tái sinh về các cõi lành.

Biết tâm là vọng, chúng ta không còn chấp chặt những kiến giải, những tình cảm của mình. Ta có sự thông cảmđộ lượng đối với người khác, không bảo thủ ý kiến của mình, biết lắng nghe để hiểu và thương được mọi người. Cho đến sự đổi thay tráo trở của người thân, của bạn bè nếu có, ta cũng không xem đó là điều đả kích. Nhưng cần lưu ý ở chỗ: Chúng ta không động tâm trước sự phê bình khích bác của người khác, không bận lòng trước tình cảm thương - ghét, trọng - khinh, không có nghĩa là chúng ta phó mặc hoàn cảnh đẩy đưa, mặc người xung quanh muốn làm sao cũng được. Hiểu như thế là không thấy mặt tích cực của sự tu hành. Chúng ta luôn bình tĩnh an nhiên trước mọi biến động của các pháp, nhưng vẫn đánh giá đúng mức những việc xảy ra để sắp xếp chu đáo, giải quyết ổn thỏa. Người thật tu không ngã mạn cũng không tự ti; những khó khăn trở ngại hay thuận cảnh thuận duyên đều không làm họ rối trí hay kiêu ngạo, mà tùy nghi xử lý một cách chu toàn. Cố gắng làm tròn trách nhiệm đối với bản thân và với mọi người, nhưng họ biết tất cả đều là vọng, nên tự nhiên họ ổn cố được tâm mình.

Đối với các pháp, khi biết chỉ là vọng cảnh, chúng ta không dao động trước những biến đổi vô thường của kiếp sống. Mọi sự vật hiện tượng xảy ra đều chỉ như giấc mộng đêm qua, đủ mùi tân khổ. Do biết tất cả là mộng, chúng ta không còn đam mê những thú vui trần tục, dù hàng ngày vẫn phải đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của bản thân. Từ đó, phần nào ta bớt phiền não, cuộc đời ta bắt đầu đổi mới, từng bước tiến trên lộ trình mà Đức Phật và chư Tổ đã đi. Nếu thường xuyên quán chiếu sáu trần bên ngoài, sáu căn nơi thân và sáu thức ở tâm đều là huyễn mộng, chúng ta sẽ phá được cái chấp ngã nơi thân tâmchấp pháp nơi cảnh, tức vào cửa nhà Thiền.

Nhưng có khi nào thiền sinh chúng ta tự hỏi: “Tu theo pháp môn Tri vọng, sao lâu nay ta chú trọng đến vọng tâm hơn vọng thân và vọng cảnh? Có pháp Tri vọng, tại sao không có pháp Tri chơn?” - Ta đã biết, chúng sinh lên xuống trong sáu đường là do nghiệp thức dẫn lôi, dù tạo nghiệp lành hay ác. Nghiệp phát sinh từ thân miệng ý, trong đó tâm ý dẫn đầu. Nếu ý khởi niệm, ta hiểu là hư dối không theo, thì miệng và thân không có cơ hội tạo nghiệp. Như vậy, không để vọng tâm dẫn lôi là tu ngay gốc. Mặt khác, do vọng tâm đưa đẩy khắp nơi, chúng ta không thể tỉnh giác để biết thân và cảnh cũng đều là vọng, nên trước tiên phải phản tỉnh, không đồng hóa mình với vọng niệm; từ đó mới có thể thấy thân mình và các pháp bên ngoài không thật có, không đáng nương theo. Biết rõ những cái hư dối, không bị chúng lừa gạt sai sử, đó đã là giác. Điều này có nghĩa, tri vọng tức là chơn, nên không cần thêm pháp “Tri chơn” nữa. Nếu có pháp ấy, “chơn” trở thành đối tượng bị biết, tức trở thành vọng mất rồi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19755)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20844)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19150)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40353)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21163)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 40946)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24011)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 22968)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17753)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26787)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20626)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33494)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20868)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28713)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12627)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25079)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19057)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17407)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25578)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18913)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18895)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28873)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18836)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33163)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38243)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31096)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18148)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24390)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19382)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17816)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22863)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 17953)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 31984)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17298)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17327)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16003)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18510)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20686)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 17935)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20020)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14769)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20800)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15014)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15688)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12862)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14440)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14836)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29237)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12687)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14433)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant