Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. …Đến Ý Nghĩa Tâm Thiền

08 Tháng Năm 201100:00(Xem: 7294)
2. …Đến Ý Nghĩa Tâm Thiền

THIỀN LÀ GÌ?
Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2002

CHƯƠNG SÁU: TÂM THIỀN

II...ĐẾN Ý NGHĨA TÂM THIỀN  

Câu chuyện trên, mới nghe qua có vẻ hoang đường, nhưng nếu suy gẫm, ta sẽ thấy đượm nhiều thiền vị. Chàng sĩ tử luôn tự mãn với kiến thức uyên bác của mình, nhưng không hiểu đó chỉ là vay mượn từ bên ngoài. Sở học thế gian không giúp chàng thấu rõ ý nghĩa thâm sâu của câu đối. Lời văn tuy rõ ràng, nhưng nội dung của nó thì cần phải đi sâu vào đạo lý mới có thể quán triệt. Vì có lửa trong đá, nên khi hai viên đá cọ vào nhau mới có lửa phát ra; dù đá chìm dưới nước ngàn năm, lửa trong đá vẫn không tắt: đây là nghĩa đen của câu đối. Nhưng nghĩa bóng thì ám chỉ một loại lửa khác, cháy sáng muôn đời, không thấy bằng mắt thường vì không có hình tướng, không bao giờ hoại diệt dù đá bị vỡ tan. Lửa đó ở ngay thân tứ đại, ngày đêm chiếu sáng qua sáu căn.

Hiểu được câu trước, ta hiểu luôn câu đối lại của vị sư: Mặt trăng chiếu sáng trong hư không, muôn đời còn mãi với thế gian. Đứng dưới đất nhìn lên, có đêm ta thấy trăng sáng, có đêm thấy không trăng. Đó là kết quả sự vận hành của hệ thống mặt trời - quả đất - mặt trăng trong mối liên hệ hỗ tương của chúng. Thật sự, mặt trăng luôn hiện hữu, vẫn quay chung quanh quả đất theo quỹ đạo và chu kì của riêng nó. Cũng như vầng trăng miên viễn của chúng ta, dù chúng ta quên hay nhớ, dù chúng ta mang thân xác nào, thọ nghiệp báo nào trong ba cõi, trăng vẫn chiếu soi, vẫn vạn cổ trường tồn.

Nhận được ngọn lửa hay mặt trăng thường hằng bất diệt trong thân ngũ uẩn vô thường sinh diệt, chúng ta thấu hiểu tâm Thiền. Gọi là “hiểu”, nhưng không phải hiểu bằng ý thức, nên không liên quan đến kiến văn quảng bác thế gian, đến khả năng suy tư biện luận. Hiểu ở đây phải bằng trực giác, bằng kinh nghiệm nội tại từ công phu tu trì nghiêm mật. Một khoảnh khắc nào đó trong đời, khi khối nghi ôm ấp lâu nay bùng vỡ, ta trực nhận ra tự tánh thanh tịnh bản lai của chính mình, thì đến chết vẫn không quên. Có thể xem trường hợp của Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn là một ví dụ điển hình:

Hương Nghiêm là một bậc thông tuệ, tánh thức minh mẫn, nhưng ở dưới hội của Tổ Bá Trượng nhiều năm vẫn chưa tỏ ngộ lý Thiền. Khi Tổ mất, Ngài Qui Sơn bảo sư:

- Ta nghe ngươi ở chỗ tiên sư Bá-Trượng hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm. Đó là ngươi thông minh lanh lợi, nhưng ý hiểu thức tưởng là cội gốc sanh tử. Giờ đây thử nói một câu khi cha mẹ chưa sanh xem!

mờ mịt không đáp được, tìm tất cả sách vở cũng chẳng thấy có câu trả lời thỏa đáng. Sư than: “Bánh vẽ chẳng no bụng đói”, rồi đốt hết sách vở, về làm ruộng ở Nam Dương. Một hôm, đang cuốc cỏ trên núi, sư lượm hòn gạch ném ra ngoài, vô tình hòn gạch trúng cây tre vang một tiếng “cốc”. Sư chợt tỉnh ngộ phá lên cười. Nhân đó, làm bài kệ:

 Nhất kích vong sở tri

 Cánh bất giả tu trì

 Động dung dương cổ lộ

 Bất đọa thiểu nhiên ki.

 Dịch:

 Tiếng vang quên sở tri

 Cần chi phải tu trì

 Đổi sắc bày đường cũ

 Chẳng rơi vào lặng im.

Xem đó, muốn thể nhập chân lý tuyệt đối, không thể nhờ sách vở bên ngoài. Bằng kiến thức sở hữu qua kinh sách, ta có thể hiểu thế nào là mê, thế nào là giác, thế nào là con đường đi đến giác ngộ. Nhưng nếu muốn thực sự có một bước nhảy từ mê qua giác, và một bước nhảy siêu vượt cả mê lẫn giác, ta phải tự thân thẩm thấu vào tận cùng nguồn cội của cuộc sống, phải tự thân lặng sâu vào tận cùng cái thăm thẳm của tâm thức. Có như thế, ta mới tiếp cận với kinh Phật, không chỉ ở tầng hiển ngôn, mà còn ở tột cùng tầng vô ngôn huyền nhiệm. Lúc ấy, ta mới thấy rõ, trên đời không có gì quý bằng bản tâm thanh tịnh sẵn đủ của mình; vì khi nhận ra và hằng sống với nó, ta đã thoát khỏi cái khổ lớn nhất của kiếp chúng sanh, là cái khổ luân hồi trong tam giới. Ta mới hiểu rõ, vì sao đức Phật và chư Tổ có thể hy sinh gia đình, công danh, kể cả mạng sống của mình để hoàn thành nghiệp lớn. Ta cũng thấu triệt ý nghĩa của hai câu “Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn” trong bài kệ bảy bước của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta lúc đản sanh, tại vườn Lâm-Tỳ-Ni thuở trước.

Tất cả mọi hàm linh, dù hoàn cảnh chánh báoy báo khác nhau, đều bình đẳngbản tâm, ở cái Ngaõ này. Bản tâm vốn lặng lẽ mà hằng tri, như chiếc gương có đặc tính chiếu soi mọi vật đặt trước nó. Gương bị bụi bám không chiếu soi được, nhưng tính sáng nguyên thủy của nó không bao giờ mất, nên khi lau sạch bụi, gương trở lại trong sáng như xưa. Chúng ta bị những lớp bụi phiền não bám khằn vào tâm từ bao đời kiếp, nên không thể tiếp nhận chân lý Thiền. Khi nhìn một vật, lẽ ra bằng trực giác, mọi người đều biết như nhau; nhưng do tập khí, nảy sinh thêm vọng niệm khen chê ưa ghét; vọng này chưa dứt, vọng khác tiếp tục nổi lên. Đầu óc chúng ta vì vậy lúc nào cũng lăng xăng lộn xộn, tâm ý lúc nào cũng quay cuồng như ngựa mất yên cương. Nếu biết cách miên mật công phu, gột rửa dần tập khí, một lúc nào đó chân lý sẽ hiển bày. Lúc tâm hoàn toàn thanh tịnh, cái thấy nghe hiểu biết của ta không bị tạp lẫn với những ý kiến thức tưởng chủ quan, cái Biết bình đẳng ấy mới khế hợp với tâm Thiền.

Kinh Viên-Giác, Phật dạy: “Nếu chưa ra khỏi luân hồibiện biệt tâm Viên-Giác, thì tánh Viên-Giác kia cũng đồng với lưu chuyển”. Nếu ta đem tâm sanh diệtbiện luận về chỗ vô sanh, thì chỗ vô sanh ấy cũng trở thành sanh diệt. Mây bay thấy trăng chạy, thuyền đi thấy bờ dời ; thật ra trăng và bờ đâu có dời chỗ, do cái thấy sai lầm điên đảo của chúng sanh nên sự thật bị lệch lạc. Chúng ta luôn sống bằng ý thức, nên nhìn sự vật qua lăng kính của phân biệt, tưởng tượng, suy lường; từ đó không nhận chân được thực tại, không thấy được bản chất của muôn pháp. Mặt khác, còn ý thức thì bản ngã còn có cơ hội xen vào trong hành vi ngôn ngữ, kể cả trong công phu tu tập. Nhiều thiền sinh trải qua một thời gian hành trì, có vài kết quả khả quan, tự cho mình có căn tánh hơn người. Cũng có thiền sinh, nhờ thông minh lanh lợi, có nhiều kiến giải về Thiền, hiểu lầm giác ngộ là chuyện dễ dàng, cho mình đã xong việc. Bản ngã vì thế lại càng tăng trưởng, không chịu hạ mình học hỏi, không tinh cần hạ thủ công phu. Lần lần có chiều hướng đi xuống, cuối cùng đọa lạc. Đây là điều rất đáng tiếc. Cho nên cần hiểu, giác ngộ không phải là kết quả của sự mong cầu, không phải là hành vi của ý thức, càng không phải là chuyện đơn giản đạt đến trong một sớm một chiều. Phải có đời sống thiền tập miên mật, phải có ý chí kiên cường, tinh ròng không tạp, phải hội đủ túc duyên, chúng ta mới có cái nhìn sự vật không qua niệm khởi, không qua tư duy, không chìu uốn theo các pháp và sanh tâm trên đó. Lúc ấy, ta mới biết giác ngộ là thế nào.

Khi vua Lý Thái Tông đến viếng Thiền sư Thiền Lão, vua hỏi Ngài:

- Hòa thượng trụ núi này đã được bao lâu?

 Sư đáp:

Đản tri kim nhật nguyệt

Thùy thức cựu xuân thu

 Dịch:

Chỉ hay ngày tháng này

Biết chi xuân thu trước.

 Vua lại hỏi:

- Hàng ngày Hòa thượng làm gì?

 Sư lại đáp bằng hai câu kệ:

 

Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh

Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân.

 Dịch:

Trúc biếc hoa vàng nào cảnh khác

Mây bay trăng sáng hiện toàn chân.

Lời đáp của Thiền sư, mới nghe qua tưởng như không liên hệ gì đến câu hỏi, nhưng thật sự chứa đựng yếu chỉ nhà Thiền. Người đã sống với bản tâm, nói lời nào cũng khế hợp với đạo lý. Những năm tháng đã qua, Ngài không cần biết đến; cũng như những gì sẽ tới, Ngài chẳng cần bận tâm. “Chỉ hay ngày tháng này” là tinh thần Chánh niệm. Quá khứ không còn, tương lai chưa đến, tất cả đều chỉ là huyễn ảo, như hoa đốm trong hư không. Ngài luôn an trú tâm vào giây phút hiện tại, vào thời điểm tại-đây và bây-giờ. Bởi vì, khi thể nhập thánh trí tự giác, mọi thời gian và mọi không gian đều dung thông trong một sát-na vĩnh cửu. Đây không phải là cảnh giới do ngôn thuyết hay suy luận mà biết; đây là sự thực chứng của một bậc đã giác ngộ tâm Thiền. Khi ánh sáng trực giác bừng lên, mọi vật mọi cảnh đều hiển hiện tự tánh bình đẳng, tuy huyễn mà vẫn ở trong Như tánh. Cho nên, trúc biếc hoa vàng hay mây bay trăng sáng nào đâu cảnh khác, tất cả đều hiển lộ toàn chân.

Như vậy, học Thiền là học vào giờ phút hiện tại, tu Thiền là tu vào giờ phút hiện tại, chứng Thiền cũng chỉ là chứng vào giờ phút hiện tại ấy mà thôi. Nhưng cái gì học, tu và chứng?- Đó là TÂM. Ngoài tâm, không có gì khác. Tâm sẵn đủ ở mọi loài, luôn lặng lẽ mà tỏ sáng. Khi trực nhận tâm bản lai, ta mới biết “tu, học, chứng” thật ra chỉ là gượng nói, vì tâm ấy chính là mình, chưa bao giờ thiếu vắng. Thiền muốn chỉ rõ cái sẵn đủ này ở mọi người, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo hay ý thức hệ. Trọng tâm tu hành của nhà Thiền là phải nhận ra tự tánh, tức hồi phục chức năng nguyên thủy của chính mình. Có thể nói, kiến tánh mục đích tối hậu của thiền giả, chưa kiến tánh thì chưa phải là Thiền!

Một số thiền sinh thắc mắc: Vì sao không gọi “Vô tâm Thiền” mà gọi “Tâm Thiền”? Chúng ta thường nghe câu kệ trong bài phú Cư trần lạc đạo của Sơ tổ Trúc Lâm:

Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.

Khi đối duyên xúc cảnh, nếu không khởi niệm phân biệt khen chê ưa ghét thì không cần hỏi chi đến Thiền, vì vô tâm đã là Thiền rồi. Cảnh giới vô tâm này tương đương bức tranh số 8 trong mười bức chăn trâu của Thiền tông. Hành giả không còn ý niệm đối đãi nên phàm Thánh đều không, chẳng chán Ta-bà chẳng cầu Tịnh độ. Khi Sa-di Cao đến viếng Ngài Dược Sơn, Ngài hỏi:

- Ta nghe Trường An rất náo loạn, ngươi biết không?

Sa-di Cao thưa:

- Bạch Hòa thượng, nước con an ổn.

“Nước an ổn” có phải đất nước của Sa-di Cao không náo loạn, hay ông muốn ám chỉ điều gì? “Hai đầu không dính, ngàn mắt khó xem”. Khi tâm không vướng mắc trần cảnh, không kẹt hai bên đối đãi thì mắt Phật cũng không nhìn thấy!

Nhưng nếu chỉ đạt được trạng thái lặng lẽ thanh tịnh thì chưa phải là cứu cánh của Thiền tông. Chủ đích của Thiền là trở về thể tánh chân thật lặng lẽ mà thường biết, cảnh giới của tâm Thiền. Cho nên:

 Mạc vị vô tâm vân thị đạo

 Vô tâm du cách nhất trùng quan.

 Dịch:

 Chớ bảo vô tâm ấy là đạo

 Vô tâm còn cách một lớp rào.

Muốn vượt lớp rào ấy, hành giả phải qua “một cơn chết lớn” (đại tử nhất phiên) hay “tuyệt hậu tái tô”. Buông tay cho chết một lần, thoát xác khỏi cái tôi hư giả, chặt đứt mọi xiềng xích mối manh vọng tưởng, chừng đó sống lại, chừng đó trở về nguồn. Hành giả chợt nhận ra “Am trung bất kiến am tiền vật, Thủy tự mang mang hoa tự hồng”. Trong am chẳng thấy vật gì khác ngoài cái am, tâm Thiền bao trùm pháp giới, có gì khác ngoài tâm? Mọi vật đều trở về bản vị của nó, nước tự nó mênh mông, hoa tự nó nở hồng. Đây là cái thấy như thị, khi hành giả thể nhập tâm Thiền. Từ đó, dù cuộc đời chịu bao gian truân thử thách, dù thân tứ đại chịu nhiều bệnh tật đọa đày, các Ngài vẫn an nhiên tự tại, như Thiền sư Từ Minh nói “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ”, hoặc như Ngài Huyền Giác trong bài ca Chứng đạo:

 Hành diệc thiền, tọa diệc thiền      

 Ngữ mặc động tịnh thể an nhiên

 Túng ngộ phong đao thường thản thản 

 Giả nhiêu độc dược dã nhàn nhàn.

Trúc Thiên dịch:

 Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền

 Nói im động tịnh thảy an nhiên

 Phỏng gặp gươm đao thường nhẹ hững

 Ví nhằm thuốc độc vẫn bồng tênh.

Khi đã trở về sống với cái tịch tĩnh vĩnh hằng, với quê nhà muôn thuở, thì bất cứ lời nói cử chỉ nào cũng là Thiền. Không phong ba bão táp nào, không độc dược gươm đao nào ảnh hưởng được bản tâm không hình tướng ấy. Nếu còn thấy tâm là đối tượng tức còn khoác cho nó một tướng trạng, tâm ấy còn trong vòng sinh diệt. Nếu thấu triệt bản thể của tâm là vô nhất vật, không tướng mạo mà hằng hữu hằng tri, thì không còn chỗ nào dính bụi. Hiểu được điều này, ta mới thẩm thấu tột cùng ý nghĩa của bài kệ trong phẩm Phổ Môn - kinh Diệu Pháp Liên Hoa

 Giả sử sanh lòng hại

 Xô rớt hầm lửa lớn

 Do sức niệm Quan Âm

 Hầm lửa biến thành ao

 Chúng sanh bị khổ ách

 Vô lượng khổ bức thân

 Quan Âm sức trí diệu

 Hay cứu khổ thế gian.

Hiểu theo sự, khi chúng sanh bị tai nạn quẩn bách, một lòng cầu nguyện Bồ-tát Quan Âm, Ngài sẽ dùng thần lực cứu vớt. Nhưng chúng ta không dừng lại ở nghĩa đen bên ngoài, mà cần rõ nghĩa lý sâu xa Đức Phật muốn dạy: Quan Âmphản văn văn tự tánh - trở về nghe lại tánh nghe của chính mình. Sống với tánh nghe là giác tri, là hiện tướng của tánh giác, của tâm Thiền. Khi đã thuần thục, không còn phân biệt năng giác - sở giác, chỉ còn tự tánh thanh tịnh thường tri. Mọi vọng niệm đối đãi dứt bặt là phá được tưởng ấm, tức phá được nhân đau khổ. Do vậy, tất cả đau khổ hoạn nạn trên đời không còn làm hành giả vướng bận, dù xảy đến cho bạn bè, người thân hay cho chính bản thân mình.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19821)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20894)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19229)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40488)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21225)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41010)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24070)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23020)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17798)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26894)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20694)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33580)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20947)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28849)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12670)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25230)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19109)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17497)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25724)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18977)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18944)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28976)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18880)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33260)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38330)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31190)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18194)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24467)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19428)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17870)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22975)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 17993)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32116)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17349)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17406)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16048)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18551)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20749)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18036)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20067)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14841)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20870)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15048)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15743)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12926)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14477)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14889)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29340)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12741)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14496)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant