Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 4743)
Chương 2

AM MÂY NGỦ
Truyện Ngoại Sử của Nhất Hạnh
Lá Bối Xuất Bản, Paris 1982

CHƯƠNG II 

Đối với một người như Phụ vương nàng, Huyền Trân không thể kể lể dài dòng. Trúc Lâm đại sĩ đã từng thăm viếng Chiêm Thành và đã lưu lại kinh đô Trà Bàn của nước này hơn bảy tháng trời. Trong thời gian đó, ngài đã làm người thượng khách của vua Chàm. Ngài đã tìm hiểu về nếp sống văn hóa và phong tục của vương quốc này và đã đem lòng yêu mến ông vua Chàm còn trẻ tuổi và can trường ấy. Harijit là một ông vua thông minh. Hồi phụ vương nằng gặp chàng. Harijit mới có ba mươi bảy tuổi. Vương hiệu của chàng là Jaya Simhavarman đệ tam muội, người Đại Việt thường gọi chàng là Chế Mân. Chính nhờ vào đảm lược của chàng mà Chiêm Thành phá vỡ được âm mưu xâm lăng của quân đội Hốt Tất Liệt.

Phụ vương nàng mở đầu chuyến du Chiêm vào tháng ba năm Tân Sửu, tức là bảy năm về trước. Ngày từ biệt kinh đô Phật Thệ ngài đã hứa với Harijit là sẽ gả Huyền Trân, đứa con gái yêu quý của ngài cho chàng. Hồi đó công chúa mới mười bốn tuổi. Ngài đã nói với Harijit rằng công chúa còn bé lắm, và chàng hãy đợi tới lúc công chúa lên mười tám mới nên cho phái bộ về Thăng Long để làm lễ vấn danh. Huyền Trân còn nhớ cái ngày Thượng hoàng đi Chiêm thành về. Đó là vào tháng mười một năm Sửu, khí trời đã rét lắm. Trước khi về núi Yên Tử, Thượng hoàng đã ghé lại kinh sư đàm đạo thật lâu với vua Anh Tông, anh cả của nàng. Có lẽ hai người đã nói nhiều về chính sách ngoại giao Chiêm Việt. Hôm huynh vương mở tiệc chay cúng dường Thượng hoàng, công chúa và anh nàng là Huệ Võ Vương Quốc Chẩn cùng được vời đến tham dự. Anh Chẩn của nàng hồi đó đã hai mươi tuổi rồi nên đì đứng khá chững chạc. Sau bữa cơm, Thượng hoàng gọi riêng nàng lại và cho nàng biết ngài đã hứa gả nàng cho vương quốc họ Chế. Hồi đó tuy đã mười bốn tuổi rồi mà công chúa vẫn còn trẻ con lắm. Nàng đã đón nhận cái tin đó như một cái tin không có liên hệ trực tiếp tới mình. Nàng chỉ cúi đầu vâng dạ, và cho rằng chuyện chồng con là một chuyện xa vời, không cần nghĩ tới lúc đó. Ai ngờ thời gian đi vùn vụt như một mũi tên, và vào lúc bất ngờ nhất, phái bộ của nước Chiêm Thành đã đến. Phái bộ này đông hơn một trăm người, do sứ thần Chế Bồ Đài cầm đầu, đem theo không biết bao nhiêu là bảo vật trân quý để làm lễ cầu hôn. Đó là vào đầu tháng hai năm Ất Tỵ, khi chiếc bánh chưng cuối cùng trong cung vừa ăn hết và nàng vừa mới lên mười tám tuổi. Bất thần đứng trước một tình thế cấp bách, công chúa sinh hoảng. Nàng không biết tỏ cùng ai. Mẹ nàng, hoàng hậu Khâm Từ, đã mất năm nàng lên sáu tuổi. Bà dì của nàng là hoàng hậu Tuyên Từ, em ruột của mẹ nàng, thì tính tình nghiêm nghị quá, không bao giờ công chúa nghĩ là có thể bộc lộ tâm tình với bà. Nước Chiêm Thành đối với công chúa là một cái gì hoàn toàn xa lạ. Từ nhỏ đến giờ, ngoài chuyến đi về thăm quê nội ở Hải Dương, nàng chưa từng được đi đâu cả. Chính nước Đại Việt là nước của mình mà công chúa còn chưa biết rõ thì làm sao nàng biết được thế nào là nước Chiêm Thành. Từ lúc còn bé thơ, công chúa đã thuộc lòng câu: "Nước Đại Việt, Bắc giáp Tống, Tây giáp Lão Qua, nam giáp Chiêm Thành, Đông giáp biển Nam Hải" do thầy học của nàng là Văn Túc Vương Đạo Tái dạy. Vị giáo sư này cũng đã từng dạy anh nàng là Quốc Chẩn. Ông nói là từ xưa đến nay Chiêm Thành và Đại Việt đã từng có can qua với nhau nhiều lần rồi, và phần đất miền Nam của Đại Việt bây giờ ngày xưa vốn thuộc về lĩnh thổ nước Chiêm.

Ngay chiều hôm sứ thần Chiêm Thành cùng phái bộ dâng lễ vật cầu hôn của Chàm, vua Anh Tông đã về cung Thánh Từ báo liền cho Thái hậu Tuyên Từ biết. 

Lúc đó công chúa đang đứng hầu ngay bên Thái hậu mà cũng không được anh mình ban cho lấy một lời. Công chúa biết đây là việc đại sự quốc gia, mình không có quyền lạm bàn, dù việc có liên quan tới thân mạng mình đi nữa. Vua chỉ nhìn nàng hồi lâu mà không nói gì. Một lát sau, thu hết can đảm, công chúa hỏi: "Vậy huynh vương đã nhận lời chưa?". Hỏi xong câu hỏi, công chúa ngước nhìn Thái hậu thì gặp hai con mắt rất đổi nghiêm nghị của bà. Nàng sợ sệt cúi đầu, nhưng vua Anh Tông đã dịu dàng nói: "Chưa, việc này trọng đại lắm, ta phải hỏi ý quần thần mới được".

Sáng hôm sau, vua Anh Tông thiết triều để nghị luận về việc cầu hôn của vua Chàm. Buổi trưa hôm ấy Huệ Võ Vương Quốc Chẩn về cung và báo tin cho dì và em gái biết là triều đình đã quyết định nhận sính lễ của vua Chàm. Anh Chẩn thuật lại những chi tiết của buổi chầu. Ban đầu, nhiều người chống đối việc chấp nhận sính lễ. Quan tham tri chính sự Đoàn Nhữ Hài là một trong những người chống đối mạnh mẽ nhất. Ông này đã từng đi sứ Chiêm Thành và cũng đã từng đề nghị việc sứ thần Việt không nên lạy vua Chàm mỗi khi vào bệ kiến, nhưng Văn Túc Vương Đạo Tái đã đứng dậy nói rằng ông hoàn toàn tán đồng việc gả công chúa cho vua Chàm. Ông nói: "Thượng hoàng là người trông xa nghĩ rộng, và một khi ngài đã có chủ định về vấn đề nào tức là ngài đã cân nhắcsuy xét kỹ càng. Tại miền Bắc, giặc Nguyên vẫn lăm le muốn trở lại Đại Việt; nếu ở miền Nam hai nước Chiêm và Việc không chung sống hòa bình với nhau thì cả hai đều có thể trở thành mồi ngon của họ. Công chúa về Chiêm là để thắt chặt tình hữu nghị giữa hai nước và để xây dựng một nền hòa bình Chiêm Việt lâu dài, đâu phải là một chuyện gả bán thông thường. Vả lại, một lời hứa của Thượng hoàng, ta không thể xem như là có thể xoá bỏ một cách dễ dàng được. Đó là danh dự của cả một nước. Xin Hoàng thượng và triều thần suy xét". Sau khi Văn Túc Vương nói thế, quan nhập nội hành khiển là Trần Khắc Chung cũng đứng dậy tán thành. Trước hết quan hành khiển nhấn mạnh về sự quan trọng của lời hứa Thượng hoàng. Sau đó ông nói đến việc vua Chiêm đề nghị nhượng đất hai Châu Ô và Ri làm lễ dẫn cưới. Ông nói rằng việc gả bán này rất có lợi vì nó giúp ta mở rộng bờ cõi về phía Nam mà không tốn một giọt máu viễn chinh. Luận cứ của ông đã thuyết phục được quan tham tri chính sự Đoàn Nhữ hài và những người đứng về phía chống đối. Có nhiều biện tài cho nên ông đã thuyết phục được vua và triều thần, nhất là khi Hoàng Đế Anh Tông là một người con chí hiếu. Cuối cùng, cả triều thần đều đồng ý việc chấp nhận sính lễ và định ngày mai sẽ báo tin cho phái bộ Chiêm thành là lễ cưới được tổ chức vào tháng sáu sang năm.

Nghe anh Quốc Chẩn thuật tới đó. Huyền Trân liền rút lui về phòng nàng. Số phận công chúa như thế là đã định. Hết rồi những ngày thơ ấu. Hết rồi những ngày vô tư cười đùa dưới mái cung quen thuộc. Hết rồi những mơ ước thường tình. Một nàng công chúa sinh ra là để đền trả công ơn đất nước. Cũng không khác gì một vị hoàng tử phải can đảm ra gánh vác trách vụ của một ông vua. Trước kia, khi hầu chuyện với Thượng hoàng, nàng thấy việc về Chiêm của nàng là một cử chỉ đẹp đẽ, phù hợp với nguyện vọng của hai dân tộc Việt Chàm. Bây giờ đây nghe thuật lại những lời của quan hành khiển, nàng lại có cảm tưởng nàng là món hàng đem đi đổi chác. Công chúa gục đầu trong hai tay và khóc nức nở một hồi lâu.

Tối hôm đó, công chúa được vua Anh Tông gọi đến vỗ về và khích lệ. Công chúa nghiêng đầu chăm chú nghe những lời dạy bảo của anh. Chưa bao giờ vua Anh Tông dàng cho nàng nhiều thì giờ như thế. Vua nói sang năm, đến ngày công chúa vu quy, vua sẽ cho phép ngàng đem theo bất cứ người hầu cận nào mà nàng ưng ý và vua cũng sẽ chọn nàng một thị nữ gốc Chàm để lo việc thông dịch cho nàng trong những tháng đầu. Vua khuyên nàng từ ngày mai nên bắt đầu học tiếng Chiêm Thành và hứa sẽ tìm cho nàng một vị giáo thọ trong số những người học sĩ Chàm có mặt ở kinh đô. Vua lại nói rằng thế nào những liên lạc ngoại giao Chiêm Việt cũng sẽ trở thành khắn khít trong tương lai và có thể Thượng hoàng sẽ có dịp đi vân du sang Chiêm trong vài năm tới. Công chúa hỏi anh và chuyện nhượng địa. Vua nói rằng việc vua Chàm có ý định dâng hai châu Ô và Ri là do từ ý vua ấy đề nghị để bày tỏ thiện chí muốn xây dựng tình hữu nghị giữa hai nước chứ không phải chuyện mua bán. Việc này không ảnh hưởng gì đến quyết định của Thượng hoàng ngày trước, cũng không ảnh hưởng gì đến quyết định hôm nay của vua. Trong triều có người vì tham đất nên tán thành chuyện thông gia giữa hai nước, nhưng riêng vua, vua không nghĩ như họ. Vua rất quan tâm đến hạnh phúc của công chúa và nghĩ rằng cuộc nhân duyên này có thể mở ra một chân trời ngoại giao mới, có rất nhiều hứa hẹn. Nghe vua nói thế, Huyền Trân nhìn vua với cặp mắt biết ơn. Mấy năm gần đân, anh Thuyên của nàng thường bận rộn vì việc nước, ít khi có dịp nói chuyện tâm tình với các em. Một lần, cách đây hơn sáu tháng, vua có gọi Huyền Trân vào và cho nàng xem tập Thủy Vân Tùy Bút của vua, trong đó toàn là những bài thơ và những bức họa thủy mặc do chính vua ngự chế sau những buổi chầu và vào những ngày tương đối nhàn nhã. Tập này vua chưa từng cho ai xem hết, ngoài nàng, và vua dặn đừng cho ai hay biết là vua có vẽ và có làm thơ. Anh Thuyên của nàng vừa thông minh vừa thận trọng nên rất được Thượng hoàng tin cậy. Hồi trẻ, anh chỉ có một cái tật là ưa rượu xương bồ, dấu Thượng hoàng mà uống, và một lần Thượng hoàng đã bắt gặp. Việc này xảy ra vào năm Ất Mùi, lúc Huyền Trân mới được tám tuổi. Năm đó, Thượng hoàng đang tập sự xuất gia ở hành cung Vũ Lâm. Một hôm bất thần ngài về kinh sư mà các quan trong triều không ai hay biết cả. Trong lúc ấy, vua Anh Tông uống rượu xương bồ say quá. Thượng hoàng thong thả đi quán sát trong cung điện từ giờ Thìn đến giờ Tỵ mà cũng không thấy vua đâu. Nghe ngài hỏi, cung nhân liền đánh thức vua, nhưng lúc ấy vua say quá dậy không nổi. Thượng hoàng lập tức đi về cung Thiên Trường, xuống chiếu cho các quan ngày mai về họp tại phủ Thiên Trường. Mãi đến quá trưa vua mới tỉnh. Nghe cung nhận thuật lại cớ sự, vua sợ quá vội đi ra thì không thấy bóng ai cả. Qua tới chùa Tư Phúc, vua gặp một người học trò đại tập tên là Đoàn Nhữ Hài, liền nhờ anh này thảo cho một tờ biểu tạ tội, rồi hai vua tôi lấy thuyền đi về phủ Thiên Trường. Sáng hôm sau Đoàn Nhữ Hài thay vua đội mưa quỳ trước sân từ sáng đến chiều để dâng biểu. Đọc biểu thấy lời lẽ khẩn thiết, Thượng hoàng cảm động gọi vua và bảo:

- Ta còn sống đây mà người còn dám làm như thế, thì khi ta chết đi cớ sự sẽ như thế nào?

Vua dập đầu tạ tội. Từ đó trở đi vua không động đến rượu xương bồ.

Những năm mới làm vua, anh Thuyên của nàng cũng còn ham chơi lắm. Ban ngày bận việc triều chính, cho nên anh chỉ đi chơi ban đêm. Cũng như Quốc Chẩn và nàng, vua không ưa bị tù túng. Ban đêm vua thường đi chơi bằng kiệu, thăm viếng hết mọi nơi trong kinh kỳ. Thường thường vua có đem theo mấy người thị vệ. Có một lần đi chơi đến quân phường, vua gặp một bọn vô lại đang ném đá vào nhau. Một đứa ném đá vào đầu vua chảy máu, người hầu la lên:

- Đây là kiệu của vua, bọn bay đừng xâm phạm.

Bọn vô lại chạy tứ tán. Hôm sau Thượng hoàng thấy vết thương ở trán, hỏi, vua cứ thực thà tâu lại cớ sự. Hôm ấy vua cũng bị Thượng hoàng quở cho một hồi.

Anh Thuyên của nàng sinh vào năm Tí, làm vua từ lúc mười tám tuổi. Lên ngôi hồi tháng ba thì tháng chín mẹ mất. Phủ phục bên linh sàng của Hoàng thái hậu Khâm Từ, anh khóc đến đỏ cả hai mắt. Huyền Trân lúc ấy cũng khóc, nhưng công chúa cứ tin là mẹ mình có thể sống lại bất cứ lúc nào. Anh Quốc Chẩn khóc to lớn hơn ai hết. Anh gào thét đến nỗi Thượng hoàng phải tới nắm vai anh thật chặt và nhẹ nhàng bảo anh khóc nhỏ lại. Thái hậu Khâm Từ là một bà mẹ rất ngọt ngào, thông minhnhân từ. Đối với kẻ dưới, bà rất rộng lượng cho nên ai cũng yêu mến bà. Bà lại nổi tiếng là người can đảm không ai bằng. Có một hôm bà ngồi trên vọng lâu cùng với Thượng hoàng xem võ sĩ đánh thi với cọp thì có một con cọp nhảy được lên lầu khiến tất cả đều hoảng sợ bỏ chạy. Lúc ấythản nhiên lấy một chiếu chiếu lên che cho vua và mình. Con cọp gầm lên nhưng không động đến hai người, và cuối cùng nhảy xuống. Một lần khác ngự ở điện Thiên An với Thượng hoàng để xem tập voi ở Long Trì, cũng có một con voi xông vào, định lên trên điện. Quân hầu chạy tứ tán, chỉ có một mình bà ngồi lại với Thượng hoàng. Con voi cuối cùng rồi không xông lên điện. Bà thật xứng đáng là con gái của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, người có công đầu trong việc đánh bại cuộc xâm lăng của quân Nguyên.

Sau khi mẹ của công chúa mất thì bà dì của nàng được phong làm Thái hậu Tuyên Từ. Liền sau đó, anh Quốc Chẩn cũng được phong làm Huệ Võ Đại Vương. Anh mới mười ba tuổi, công chúa nhớ rất rõ ngày lễ phong vương của anh Chẩn. Súng sính trong bộ áo mão lịch kịch và nặng nề, anh Quốc Chẩn của nàng tập đi từng bước chậm rãi và đường bệ, trông tức cười làm sao. Mặt anh ấy bí xị gần như muốn khóc. Anh Chẩn chỉ ưa chạy nhảy, leo trèo và đánh nhau với các vương tôn cùng lứa. Thái hậu Tuyên Từ rất nghiêm khắc. Tuy bà có thương yêu ba anh em nàng thật nhưng không ai dám dễ ngươi với bà. Anh Thuyên đã làm vua mà cũng sợ bà thin thít; bà nói gì anh cũng vâng lời răm rắp. Có lần Thượng hoàng nói với anh:

- Ngày trước quần thần thường xưng tụng ta là một ông hiếu hoàng, thực ra quan gia mới xứng đáng danh hiệu đó.

Thượng hoàng gọi vua là "quan gia". Có một bữa Huyền Trân hỏi "quan gia" là gì, ngài nói:

- Quan gia là người biết xem đất nước là của công chứ không phải là của riêng mình và xem cả thiên hạ là nhà của mình.

Mặc dù Thái hậu Tuyên Từ dạy dỗ rất nghiêm, Huyền Trân vẫn không bỏ được tính nết tinh nghịch của mình. Vắng mặt bà, nàng vẫn cứ đùa giỡn thỏa thích. Tuy tinh nghịch nhưng không bao giờ nàng rắn mắt cho nên các cung nhân thường cưng quý nàng và không bao giờ mách lại với Thái hậu. Anh Quốc Chẩn của nàng cũng thường hay kéo nàng tới tham dự những cuộc chơi mà anh tổ chức với các vương tôn công tử cùng lứa tuổi. Anh thường rủ nàng sang sân chùa Từ Phúc chơi, và ngoài thì giờ học hành hai anh em thường tìm tới dưới bóng mát của những cây tùng, cây bách phía sau chùa để nô đùa cùng các bạn.

Năm Huyền Trân được mười ba tuổi thì hoàng tử Mạnh sanh. Hoàng tử Mạnh là con vua Anh Tông. Mẹ của hoàng tử là hoàng hậu Thuận Thánh, con gái đầu của Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng. Bà đã sinh đến hai hoàng nam rồi nhưng đều không nuôi được cho nên kỳ này bà bàn với vua giao phó hoàng tử Mạnh cho thúc phụ của Thượng hoàng là Chiêu Văn Vương Nhật Duật nuôi. Nhờ vậy mà Huyền Trân thường có dịp cùng anh Quốc Chẩn đến chơi nhà ông chú để thăm cháu mình. Mỗi lần đến nhà ông chú, Huyền Trân lại được phép ẳm hoàng tử Mạnh. Đứa cháu mà nàng ôm trong tay, nàng nghĩ, sẽ trở thành một ông vua sau này, và nàng tinh nghịch lấy một ngón tay đưa vào nách cháu để nhìn ông vua tí hon cười lên sằng sặc trong tay mình.

Năm sau Thượng hoàng đi du hóa ở Chiêm Thành. Khi trở về ngài cho Huyền Trân biết là ngài đã hứa gả nàng cho vua Chiêm. Ngài nói là ba bốn năm nữa vua Chiêm mới cho người sang dâng sính lễ. Ở xú nàng con gái lớn lên cha mẹ đặt đâu thì con ngồi đấy. Công chúa cúi đầu vâng dạ, nhưng trong thâm tâm vẫn nghĩ rằng ba bốn năm sau còn là chuyện xa vời.

Cho đến buổi trưa ngày anh Quốc Chẩn nhận sính lễ, Huyền Trân mới thấy rõ đời mình đã thực sự chuyển sang một hướng mới. Nàng đã khóc, nhưng chiều hôm đó, vua Anh Tông đã ôn tồn dạy bảo cho nàng, với tất cả tình thương của một người anh cả cho đứa em út. Đêm đó, Huyền Trân thao thức không ngủ. Nàng đợi cho đến sáng để vào hầu Thái hậu Tuyên Từ, xin phép bà để về núi Yên Tử thỉnh huấn Thượng hoàng hiện đang tu hành trên ấy. Thái hậu truyền lấy kiệu cho nàng đi và cho Thị Ngọc đi theo nàng để hầu cận. Thị Ngọc cũng suýt soát tuổi nàng và dáng người cũng dong dỏng cao như nàng.

Ngồi trên kiệu, Huyền Trân nghĩ đến thầy học của nàng là Văn Túc Vương Đạo Tái. Theo anh Quốc Chẩn thuật lại thì Văn Túc Vương là người đầu tiên đã đứng lên tán thành chuyện hôn nhân của nàng và vua Chiêm. Ông là người nổi tiếng bậc nhất về văn họckinh sư. Ông thương yêu Huyền Trân rất mực, và thường nói với Thượng hoàng rằng công chúa một cô gái thông minh. Văn Túc Vương không phải như quan hành khiển Trần Khắc Chung. Nếu ông có tán đồng về việc nhân duyên này thì không phải là vì ông đã tính tóan chuyện được mất theo lẽ thường tình. Chắc chắn là ông đã nghĩ tới ý nguyện của Thượng hoàng và hạnh phúc của công chúa. Huyền Trân rất mến thương ông. Phụ vương của nàng cũng tỏ ra có biệt nhãn đối với ông. Thượng hoàng yêu mến ông hơn hết trong số các em chú bác khác của ngài. Văn Túc Vương là con của Thượng tướng Trần Quang Khải, người đã sáng tác thi tập Lạc Đạo, và cũng là người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên từ năm Nhâm Ngọ cho đến năm Mậu Tý. Công trạng của ông có thể nói là ngang hàng với công trạng của Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn, ông ngoại của công chúa, bởi vì ông văn vũ toàn tài. Văn Túc Vương cũng thừa hưởng khí chất văn tài đó của ông và không biết do một nhân duyên mầu nhiệm nào đó, đã được Thượng hoàng yêu mến đặc biệt. Có một lần công chúa thấy Thượng hoàng vời ông vào cung, truyền sai làm những món hải vị hiếm có để thết đãi ông, rồi ngồi nhìn ông ăn. Thượng hoàng lúc đó đang tập sự xuất gia cho nên đã ăn chay trường rồi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19840)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20909)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19251)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40508)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21245)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41043)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24090)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23034)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17825)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26929)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20714)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33617)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20991)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28882)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12682)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25265)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19130)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17508)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25752)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18996)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18965)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29006)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18892)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33307)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38375)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31227)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18216)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24484)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19442)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17889)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23020)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18008)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32166)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17376)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17425)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16065)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18562)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20758)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18061)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20101)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14873)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20897)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15063)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15755)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12934)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14501)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14899)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29384)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12764)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14514)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant