Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Lợi ích khi lìa bỏ tham dục

04 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 8216)
7. Lợi ích khi lìa bỏ tham dục

BÓNG ÁO NÂU
TẬP SÁCH VỀ CUỘC ĐỜI THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN THANH
Biên tập: Minh Thuận - Huệ Nghiêm - Nhuận Liên

Phần I: 
Những bài giảng của thầy

Lợi ích khi lìa bỏ tham dục 

con người, ít nhiều thì ai cũng có lòng tham. Nói con người không tham là chưa chính xác. Có nhiều cái để tham, tạm khái quát qua các mặt: tài, sắc, danh, thực, thuỳ. Muốn kềm chế lòng ham muốn không phải dễ, vì hầu như không bao giờ người ta thấy mình đầy đủ. Để có một cuộc sống thanh bạch, nhẹ nhàng, không phiền não, lo âu, sợ sệt, chúng ta cần biết đủ, tức là sống thiểu dục tri túc. Điều này không phải ai cũng làm được, bởi lòng tham vốn không đáy.

Thế gian, dù có bao nhiêu, đa số mọi người vẫn cứ thấy thiếu. Chỉ có hạng người biết đủ mới không có cảm giác luôn thấy mình chưa đủ và không bị lòng ham muốn dằn vặt mà thôi.

Cuộc đời Đức Phật là một tấm gương sáng chiếu về vấn đề này. Là một thái tử, ngài có đầy đủ tiền tài, danh vọng, cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan…, nhưng ngài sớm nhận biết những thứ đó không làm cho ngài an lạc. Ngài đã vì lý tưởng lớn, vì nhân loại, vì muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng sanh tỏ ngộ mà khước từ tất cả hạnh phúc thế gian. Có thể nói, người có quyền lực, tiền tài, danh vọng mà dám từ bỏ, không tham đắm, đó mới là người có ý chí tối thượng. Người đã thiếu mà còn tham thì lại càng thêm khổ. Cũng như vậy, nhu cầu luôn làm cho con người cảm thấy thiếu, mà càng thấy thiếu thì lại càng khổ. Biết mình sống tạm đủ, không bon chen danh lợi thì nhất định sẽ có phần nào an lạc. Trong kinh dạy rất rõ: “Nếu biết đủ thì nằm đất cũng thấy đủ; nếu không biết đủ dầu ở thiên đường cũng không xứng ý”.

Do tham đắm nên nghiệp mới lôi kéo con người triền miên trong sanh tử luân hồi. Bản tánh tham đã có trong nhiều đời nhiều kiếp, muốn gột rửa nó thì phải trải qua quá trình tinh tấn tu tập. Đứa trẻ ba bốn tuổi thấy những sinh vật nhỏ bé như: cào cào, bươm bướm… nó liền muốn bắt, đó là tập khí muốn chiếm hữu; hoặc khi đưa vật gì màu xanh, màu đỏ nó chụp lấy ngay, không lấy được nó khóc xanh mặt, tánh tham này có từ trong bụng mẹ. Những tánh tham ấy không phải ngày một ngày hai mà lìa bỏ được. Phải kiên nhẫn gột rửa dần dần, như cái áo trắng dính bẩn lâu ngày không giặt, nếu chỉ giặt một lần, giặt sơ sơ thì không thể sạch được, nhưng điều quan trọng là ta thấy được vết bẩn ấy và quyết tâm tẩy nó đi. Tập từ những bước đơn giản, ví như: Tập cho mình tánh giản dị trong cuộc sống, chẳng hạn như bữa ăn hàng ngày không quá cầu kỳ, dưỡng chất, chỉ cần làm sao vừa đủ để nuôi thân. Như vậy, chúng ta không phải lao tâm khổ tứ vì chuyện ăn mặc và có nhiều thời gian để tu tập.

Có thể nói, trên bước đường tu tập, đường đi lên rất khó còn đường đi xuống lại rất dễ, bởi tiền tài, sắc dục có sức rất mạnh, thường dễ lôi kéo, cám dỗ con người. Do đó, cần phải chế ngự năm căn, không để cho nó sai xử, dẫn dắt, phải biết làm chủ hành động của mình. Nên nhớ, nghiệp cũ chưa dứt bỏ hết thì không nên tạo thêm nghiệp mới; nếu chưa biết hút thuốc thì đừng hút, bởi khi huân tập rồi thì khó mà bỏ được. Cũng như vậy, điều tốt chưa sinh thì khiến nó phát sinh, điều tốt đã có rồi thì làm cho nó phát triển hơn nữa. Bằng sự nỗ lực, mỗi người trong chúng ta cố gắng khắc kỷ và làm hòn đảo cho chính mình, đừng để sóng tham dục nhận chìm, bởi việc tốt thì khó làm mà việc xấu lại dễ huân. Chúng ta hãy giữ vững lập trường, ý chí, không chạy theo ngũ dục, trần cảnh, tự chế ngự thân tâmthực tập sống với tinh thần biết đủ để an vui. Đức Phật nói người ngu si ám độn thì bị đắm chìm trong buông lung. Người không lấy trí tuệ làm nền tảng của sự nghiệp thì không biết cái nào là phải - trái, tội - phước… Do đó họ có thể làm bất cứ điều gì, để rồi kết quả là đọa lạc trong cảnh khổ nhiều kiếp.

Người trí không buông lung tham đắm nên họ chẳng lo sợ gì, còn kẻ ngu si luôn ôm nhiều lo sợ. Người có trí giống như người đứng ở trên lầu cao nhìn xuống muôn vật, biết rõ sự tốt - xấu, thấu tỏ người ngu - trí. Trước khi làm việc gì, chúng ta cần suy nghĩ đến hậu quả của nó. Việc xấu cho dù có mang đến danh lợi nhất thời chúng ta cũng không làm. Việc nào đáng nói mới nói, nói cho đúng sự thật, đúng thời và đúng chỗ. Bậc trí là người đứng trên danh lợi, tài sắc, đứng ngoài các tội lỗi của thế gian, thấy những người nghiền rượu, xì ke, biết được hậu quả của nó và không để vướng vào các tệ lậu đó. Người sống trong sự cám dỗ của tham dục khó có thể nhận ra điều dở, xấu của mình. Thế nên, chúng ta phải tập quán sát các pháp thế gian như mộng, huyễn… để thức tỉnh sự tu tập, bởi chỉ có đạo đứctrí tuệ là không bao giờ tan hoại. Trí tuệ, đạo đức phát sinh từ sự tu tập của chính mình, nó là cái không thể mua bán, chiếm đoạt, cũng không thể do một quyền năng nào đó ban tạo mà có được. Ở đời, không để nhiễm dục lạc trần gian là điều rất khó, tuy nhiên, người hiểu biết sẽ không để cuộc sống của mình đắm chìm trong dục lạc. Chúng ta phải sống và tu tập như thế nào để trở thành người cư trần mà không nhiễm trần, luôn phòng hộ các căn không để buông lung. Giống như anh chàng đi tìm thầy học kiếm, tuy không được học kiếm ngay mà phải làm công việc nấu cơm, dọn dẹp, nhưng nó cũng tập cho anh tính kiên nhẫn và sự thuần thục, nhanh nhẹn trong từng thao tác của công việc. Một hôm, trong lúc anh đang nấu cơm, vị thầy đột nhiên xuất hiện và chém gươm xuống, anh ta phản xạ rất nhanh và tránh được nhát kiếm. Từ đó về sau, anh ta luôn tập cho mình sự phòng hộ trong mọi tình huống, bởi vì lưỡi gươm bất cứ lúc nào cũng có thể cướp đi mạng sống quí giá của anh ta. Cũng như vậy, chỉ một phút lơ là đắm nhiễm, ngũ dục lạc thế gian sẽ đoạn mất căn lành khiến chúng ta đời đời đau khổ.

Tuy nhiên, nói vậy không phải để mọi người chán ghét tất cả mọi thứ thuộc về thế gianchúng ta nên hiểu: Những thứ ấy chỉ là phương tiện, không phải cứu cánh. Thế gian này chỉ là tương đối, vì thế, không phải cái gì cũng vừa ý mình, nếu không biết sự giả tạm của nó mà đắm nhiễm vào đó, không khéo sẽ bị khổ không dứt vì tham muốn. Chúng ta cũng không nên để cho sự khắc kỷ đi đến mức cực đoan, ở phương tiện nào chúng ta nên sống theo phương tiện đó, chẳng hạn như khi ăn uống, không phải vì từ bỏ mọi ham muốn mà bỏ đi những thứ ngon tốt, chọn ăn những thứ dở xấu. Làm như thế là thiếu trí tuệcố chấp. Tự tạo cho mình cuộc sống thoải mái, đơn giản, không cầu kỳ thì sẽ được an vui cả thân lẫn tâm, sự an vui này là thành quả của việc lìa tham và biết đủ.

Mỗi ngày, trước khi đi ngủ chúng ta nên suy xét từ sáng đến giờ mình đã làm những việc gì, từ ý nghĩ, lời nói đến hành động, xem việc nào sai trái thì ăn năn, chừa bỏ, việc nào tốt thì cố gắng làm tốt hơn. Trong cuộc sống, điều gì mình không muốn mà nó đến với mình thì nên khắc phục và cố gắng tĩnh tu. Đức Phật từng dạy: “Bậc trí chăn giữ tâm mình không buông lung như nhà giàu chăn giữ của quí”. Nếu chúng ta cứ để cho trần cảnh và những việc trái ý nghịch lòng mặc sức tạo cơ hội cho tham sân si nổi lên thì việc chế ngự thân tâm rất khó có kết quả. Đối với những chuyện vui buồn, tâm rất dễ chiêu cảm, cho nên chuyện gì cũng thâu tóm vào trong tâm thì chúng ta rất khó có được sự tự tại.

Trong kinh Pháp Cú Đức Phật có dụ: “Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột, kẻ tâm không tu thế nào cũng bị tham dục lọt vào tàn phá”. Đức Phật thường đưa ra những ví dụ cho chúng sinh hiểu, như trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện, Người muốn đưa chúng sinh từ tam thừa trở về nhất thừa, nên đưa ra dụ “nhà lửa”, trong đó chỉ có một cái cửa, mà những người con chẳng hiểu gì là nhà, gì là cửa, cũng không biết được sự nguy hại của lửa nên cứ mãi chơi giỡn trong đó, chẳng chịu thoát ra; cũng như chúng sinh trong ba cõi không biết được tham dục là khổ nên chẳng chịu tu. Đức Phật nói khổ trước rồi mói chỉ bày phương tiện sau, bởi Bồ Tát sợ nhân chúng sinh sợ quả. Đức Phật biết tâm chúng sinh sợ đi trên con đường dài xa nên mới đưa ra phương tiện tam thừa như xe dê, xe hươu, xe trâu tuỳ theo sức chở mà đưa chúng sinh đến bờ an vui. Khi chúng sinh đã hiểu, áp dụng được phương tiện, ra khỏi sự nguy hiểm, lúc đó Đức Phật mới chỉ bày ngoài Phật thừa ra không có thừa nào khác.

Có thể nói, nếu không tỏ được đạo thì chúng ta giống như hình cây, tượng gỗ, hớn hở trong sự phiền não nguy ngập mà không nhàm chán. Vì thế, chúng ta nên luôn luôn tự xét lấy mình, đừng để thâm tâm buông lung đắm nhiễm các dục ở đời. 

Chúc quí phật tử giữ gìn tốt ngũ giới, biết thiểu dục tri túc để tiến tu.

Thái Nam Thắng. (lược ghi)

An cư kiết hạ

nguồn sinh lực của tăng già

An cư kiết hạ là một thông lệ từ lâu của các đạo sĩ Ấn Độ khi tăng đoàn Phật giáo hãy còn chưa xuất hiện. Thời tiết Ấn Độ có vẻ khác hơn Việt Nam hay Trung Quốc cũng như các quốc gia khác: Từ tháng một đến tháng tư là mùa xuân, từ tháng chín đến tháng mười hai là mùa đông. Ấn Độ không có mùa thu. Một năm chia làm ba mùa rõ rệt như thế, nên các đạo sĩ qui định vào những tháng mưa gió nên an trú một nơi nhất định để bảo tồn sức khoẻ và tăng cường đạo lực. Giáo đoàn Phật giáo hợp thức hoá thông lệ này bắt đầu từ Lục quần Tỳ kheo (sáu thầy tỳ kheo chuyên gia khai duyên cho Phật chế giới). Suốt mấy tháng mùa mưa, nhóm sáu thầy tỳ kheo này lang thang du hoá khắp nơi không kể gì mưa gió, đạp dẫm lên hoa cỏ mùa màng mới đâm chồi hay những loài côn trùng vừa sanh nở. Cư sĩ chê trách hàng sa môn Thích tử thật quá đáng, các đạo sĩ khác vẫn có những tháng sống cố định, ngay đến loài cầm thú vẫn có mùa trú ẩn của nó, còn các vị hành đạo này thì luông tuồng không biết nghỉ chân vào mùa nào cả. Lúc ấy, đức Phật ở tại nước Xá Vệ, trong thành Cấp Cô Độc, biết được sự việc xảy ra liền ban hành quyết định cấm túc an cư cho toàn thể tăng đoàn trong các tháng đầu mùa mưa, tức từ mồng một trăng tròn của tháng A-sa-đà đến hết trăng tròn của tháng A-thấp-phược-đê-xà (Theo ngài Huyền Trang là nhằm 16 tháng 5 của Trung Quốc, sau vì muốn lấy ngày rằm tháng bảy Vu Lan làm ngày Tự tứ nên chọn ngày An cư là 16 tháng 4). Phật giáo Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc này nhưng thời gian có khác một chút. Nghĩa là thời tiết Việt Nam tuy thể hiện rõ rệt chỉ có hai mùa nắng và mùa mưa, nhưng vẫn qui định theo bốn mùa như Trung Quốc: xuân, hạ, thu, đông. Như vậy thời điểm để tu sĩ Phật giáo Việt Nam an cư là bắt đầu từ ngày rằm tháng 4 đến rằm tháng 7 (mùa hạ), đó gọi là tiền an cư. Hậu an cư là dành cho trường hợp đặc biệt, có duyên sự khẩn thiết thì có thể bắt đầu an cư từ 17 - 4 cho đến 17 - 5, và kết thúc dĩ nhiên cũng phải đủ 90 ngày như tiền an cư (cùng làm lễ Tự tứ, nhưng phải ở lại cho đủ số ngày). Riêng hệ phái Nguyên Thuỷ chọn thời điểm kiết hạ vào ngày rằm tháng 6 cho đến ngày rằm tháng 9. Tuỳ theo quốc độ, địa phương mà có những mùa an cư không hoàn toàn giống nhau, ở Việt Nam, một vài nơi còn có thêm kiết đông bắt đầu từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 12 là dựa theo tinh thần của Luật Bồ Tát.

Vì sao lại phát sinnh thêm kiết đông thay vì chỉ có kiết hạ? Có phải an cưthời gian để tăng già tích luỹ nguốn sinh lực hay không?

Hàng xuất gia trong giáo đoàn Phật giáo bao giờ cũng tâm niệm hai nhiệm vụ cần phải sớm thành tựu: thượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh. Song lộ trình tiến đến quả vị Phật hay Thánh quả thật gian truân cách trở, không phải là vấn đề một sớm một chiều hay một kiếp. Vì vậy việc tự lợi là một nhu cầu cần thiết cho bất cứ một hành giả nào còn vương mang pháp hữu lậu, chưa có phần dự vào dòng Thánh. Nếu như thời gian dành cho việc đi lại bên ngoài quá nhiều, mà căn bản phiền não vẫn còn sâu kín bên trong thì kết quả hoàn toàn sai với tinh thần hóa độ của đức Phật. Người bị trói tất nhiên không bao giờ cởi trói được cho người khác. Người có thật nhiều hạnh phúc, vượt lên trên những khổ đau triền phược mới có thể đưa người ra khỏi dòng tục bến mê. Hóa độ thì xem như chia phần, bớt đi. Mặc dù một ngọn đèn có thể thắp sáng hàng trăm nghìn ngọn đèn khác. Song một khi ngọn đèn ra trước gió, thì sự an nguy cũng giống như một người hành đạo chưa liễu đạo mà phải đương đầu với ngũ dục trần lao. Thế mới biết, an cưthời gian quý báu để người tu hànhđiều kiện nhìn lại chính mình, soi thấu bệnh tật phiền não hoặc mới huân tập hoặc lâu đời mà đoạn trừ, trị liệu. Ngoài ra việc tránh ngộ sát côn trùng hay không ảnh hưởng mùa màng của người thế tục cũng là một duyên cớ để trưởng dưỡng lòng từ bi. Song lý do trước mới là tinh thần chính yếu của việc cấm túc an cư.

Bộ Luật Tư Trì Ký định nghĩa: Lập tâm một chỗ gọi là Kiết; bộ Nghiệp Sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh gọi là An. Như vậy dù kiết hạ hay kiết đông an cư thì mục đích chính vẫn là thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức. Tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào không quan tâm đến việc tu tập thiền định để bồi dưỡng trí tuệ thì thật không xứng đáng là bậc mô phạm tỉnh thức. Sự khắc khe này cũng chỉ vì đức Phật muốn bảo hộ sức sống của tăng-già bằng việc triển khai năng lực tu tập của mỗi cá nhân. Nếu ai trong hàng xuất gia đệ tử Phật không tôn kính vâng giữ lời huấn thị của đức Phật, xem an cư là một điều bó buộc, một phương tiện nhỏ nhặt thì quả thật người ấy không những tự chối bỏ phần tự lợi mà gây ảnh hưởng không tốt cho tăng đoàn. Cũng như bác nông phu mỗi năm phải làm ruộng, nếu năm nào bỏ bê không chăm lo đến mùa màng thì bác sẽ bị nghèo nàn đói thiếu. Hàng Bí Sô nếu không có những ngày tháng cùng sinh hoạt cộng trú để sách tấn lẫn nhau thì làm sao có điều kiện để tạo thành năng lực hoà hợp và kiểm chứng giá trị thanh tịnh? Kết thúc khoá an cưTự Tứ, một hình thức tối quan trọng để tổng kết quá trình tu tập tiến triển hay lui sụt của từng cá nhân qua ba tiêu chuẩn: thấy, nghe, nghi. Những ai vượt ra khỏi phạm vi giới luật, buông lung theo ba nghiệp, hành động theo bản năng cố hữu thì sẽ bị cử tội giữa đại chúng để bổ khuyết sửa chữa.

Một lần, sau mùa an cư các thầy tỳ kheo lần lượt về vấn an đức Phật và trình bày công phu tu tập của mình. Đức Phật hỏi:

- Vừa qua các ông có được an lạc không?

- Thưa an lạc lắm ạ!

- Thế trong ba tháng ấy các ông tu tập pháp gì?

Các thầy tỳ kheo vui vẻ trả lời:

- Bạch Thế Tôn, chúng con thực hành pháp tịnh khẩu, tự mỗi người giữ im lặng tuyệt đối.

- Đức Phật quở trách

- Các ông thật vô trí, được sống chung sao không chịu trao đổi hay nhắc nhở nhau tu tập mà lại thực hiện pháp câm như thế, vậy an cư được lợi ích gì chứ? Các ông phải luôn sinh hoạt trong niệm đoàn kết, trên dưới thuận hoà, cùng thống nhất ý kiến, cùng bàn bạc trao đổihọc hỏi lẫn nhau, lẽ nào không thấy được giá trị của thấy, nghe và nghi làm tiêu chuẩn để thanh lọc mỗi người. Các ông đã bỏ phí một mùa an cư. Các ông đã hành động phi pháp.

Năng lực của đại chúng quả thật như biển (Đức chúng như hải) sẽ nâng đỡ những con thuyền lành tốt, khôn khéo chiều theo từng đợt sóng, và sẽ đào thải tất cả những con thuyền hư thủng ra khỏi lòng đại dương. Tăng đoàn muốn hòa hợp theo đúng bản chất của nó như nước với sữa thì buộc mỗi cá nhân phải tự nỗ lực, trang nghiêm chính mình. Ngày nay, những người trí thức ở phương Tây luôn tranh thủ cho mình một khoảng thời gian một tháng hay nhiều hơn trong năm để tu nghiệp, tức là bồi dưỡng thêm nghề nghiệp. Người tu sĩ Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp lẽ nào không đầu tư vào công phu thiền định. Không có thời gian để cùng nhau nhắc nhở giới luật. Tứ niệm xứ, Tứ thánh chủng… Một mình một cõi du hóa lơ lỏng trong nhân gian thì rất khó cho việc thành tựu tuệ giác, hóa độ viên mãn.

Cũng như những giáo hội khác, ngày nay ở Việt Nam không còn giống như thời Phật ở Ấn Độ là hàng xuất gia không phải mỗi người du hóa một phương, mang theo ba y một bình bát và ngủ dưới gốc cây, nhưng lối sống theo từng tông phái, chùa riêng, tổ đình riêng, thầy riêng đệ tử riêng thì cũng xem như rời rạc, chưa đoàn kết hoà hợp. Vì lẽ chưa dung hoà đó mà Kiết hạ an cư đã trở thành qui luật rất cần thiết để làm phương thuốc hồi sinh, làm sống lại tình Linh Sơn cốt nhục mà lắm lúc vì những nguyên do gì đó, vì bệnh nghiệp cá biệt nào đó đã làm cho anh em cùng nhà phải bút chiến, khẩu chiến phân tranh cao hạ, làm cho sư tử phải trọng thương chỉ vì loài trùng ăn gặm trong thân sư tử. Hơn nữa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay nhắm vào tinh thần thống nhất về tổ chức (thống nhất ý chí và hành động) thì Kiết hạ an cư là một phương tiện thuận lợi cho giáo hội xây dựng tăng đoàn đoàn kết hòa hợp và thống nhất mọi mặt theo phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - chủ nghĩa xã hội”.

Rõ ràng, ba tháng an cư, cửu tuần tu học đích thực là nguồn năng lực quí báu làm nóng lại và bền vững hơn tinh thần thanh tịnh hòa hợp của tăng-già. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thấy sự hưng thịnh của Phật pháp khi chốn tòng lâm ngày ngày giới luật nghiêm minh, đêm đêm toạ thiền niệm Phật, trên dưới hoà hợp, tu tập trong niệm đoàn kết an hoà.

Mùa An Cư - PL 2544

Thích Chơn Thanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28192)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6688)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8786)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9313)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15386)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8254)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8684)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16731)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26977)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18678)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15656)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22535)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19460)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18343)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16203)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25633)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12880)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37862)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20091)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10713)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10031)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10559)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10390)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11039)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15228)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10842)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19694)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11704)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10783)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11245)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10106)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10562)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11552)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10892)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11402)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12159)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11062)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13022)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17769)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15234)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15708)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11000)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12105)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11042)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21847)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12097)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9179)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20173)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17258)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10100)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant