BÓNG
ÁO NÂU
TẬP
SÁCH VỀ CUỘC ĐỜI THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN THANH
Phần II:
Truyện ký Bóng áo nâu
Ðồng
tác giả:
Thu
Nguyệt - Ðỗ Thiền Ðăng - Thiện Bảo
Lễ
Phật Ðản
Mùa
Phật Ðản, chùa Phổ Quang cũng như rất nhiều chùa khác trong
thành phố tổ chức xe hoa và lễ đài rất trang nghiêm, hoành
tráng. Buổi chiều, sau thời mông sơn thí thực, Chơn Thanh
và Chơn Hòa được quí thầy gọi đi dự lễ Phật Ðản tại
lễ đài trung tâm Việt Nam Quốc Tự. Chơn Thanh và Chơn Hòa
nhỏ con nhất nên được quí thầy cho ngồi trên xe hoa làm
“chư thiên” tung hoa cúng dường Ðức Phật. Xe đi chầm
chậm qua các ngả đường Yên Ðỗ, Hai Bà Trưng, Trần Quốc
Toản...
Khi
chiều xuống, màu huỳnh y của chư tăng sáng lên huyền ảo
trong sắc hoàng hôn. Quíù thầy đi chậm rãi bên xe hoa như
thể thiền hành; phía sau là dòng suối áo lam của Phật tử,
tay cầm cờ, miệng không ngừng hát vang liên khúc mừng Phật
đản. Phía sau nữa là quần chúng ngưỡng vọng, hiếu
kỳ nối đuôi theo. Hai bên đường rất nhiều gia đình treo
cờ Phật giáo và thiết ảnh tượng đản sinh. Những ngọn
lồng đèn hình hoa sen đủ kích cỡ màu hồng đỏ lung linh
tỏa sáng.
Lễ
diễu hành thiêng liêng và trang trọng. Dòng người trôi chầm
chậm trong lòng phố, niềm hân hoan dâng tràn.... Ðến các
ngả đường lại gặp thêm xe hoa của nhiều quận huyện khác
nữa, cùng nối đuôi nhau hòa vào niềm vui lan tỏa. Khuôn viên
Việt Nam Quốc Tự người đông chật cứng. Màu vàng của
chư tăng, màu lam của phật tử và muôn màu sắc khác của
những người tham dự. Cờ, hoa, lồng đèn, bong bóng rợp
trời. Tất cả như bừng lên lung linh trong ánh sáng của muôn
vàn ánh điện. Tiếng chuông, tiếng trống, lời kinh cất lên
rộn rã cả bầu trời lồng lộng. Dưới bến Bạch Ðằng
người ta cùng nhau thả hoa đăng, ánh sáng lập lòa bập bềnh
theo từng dợn sóng. Trên bầu trời, phía xa kia, ánh trăng
rằm vành vạnh đang cố nhô lên khỏi mấy từng nhà để
chứng kiến một mùa đản sinh mầu nhiệm.
Chơn
Thanh cảm thấy lòng hân hoan quá đỗi. Ðó là mùa Phật Ðản
để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong cuộc đời của chú.
Chú như thấy được sức sống tiềm tàng mà mãnh liệt của
Phật giáo trong lòng người dân Việt. Năm tranh đấu 1963,
chú còn nhỏ nhưng thỉnh thoảng vẫn nghe sư phụ kể về
những cuộc biểu tình bất bạo động, những cuộc tuyệt
thực, tự thiêu của chư tôn đức và phật tử, nhất là
câu chuyện về quả tim bất diệt của Bồ tát Thích Quảng
Ðức. Lúc đó, trong lòng chú cũng trào dâng lên một niềm
tự hào, tuy mơ hồ nhưng không kém phần mãnh liệt. Bây giờ,
tận mắt nhìn thấy sức sống của Phật giáo qua mùa lễ,
sau những máu và nước mắt của người con Phật đã đổ
xuống bởi sự độc tài, tàn ác của chế độ Ngô Ðình
Diệm, Phật giáo vẫn không tàn lụi, vẫn bùng lên mạnh mẽ,
niềm tự hào ấy trong lòng chú như được nhân lên. Trước
tượng Ðản Sinh, chú thầm khấn nguyện, sau này, nhất định
chú sẽ làm được một cái gì đó cho công cuộc chấn hưng
và xiển dương Phật pháp.
Mùa
hè năm đó, Chơn Thanh cùng với các huynh đệ sa di được
tùng chúng nhập hạ. Nhưng đó là một mùa hạ không bình
yên cho lắm, mặc dù trường lớp và các thời khóa vẫn được
duy trì đều đặn, nhưng thỉnh thoảng lại dấy lên các cuộc
biểu tình, các phong trào tranh đấu cho sự tự do, bình đẳng
của Phật giáo. Nhiều hôm, các thầy đi tranh đấu, tuyệt
thực tại Việt Nam Quốc Tự, các chú ở nhà tụng kinh và
quả đuờng như thường lệ. Chơn Thanh không thích tham dự vấn đề chính trị, nhưng những việc liên quan đến sự
tồn vong của Phật giáo, ít nhiều cũng khiến cho chú ưu tư,
trăn trở. Cuối năm, trong lần về chùa ăn tết, chú bày tỏ
với sư phụ về những suy nghĩ của mình. Thầy nhìn chú,
yên lặng hồi lâu rồi nói: “Công việc của con bây giờ
là tu và học. Tu cho thật tốt và học cho thật giỏi, vậy
thôi nghen!”.
An
cư kiết hạ
nguồn
sinh lực của tăng già
An
cư kiết hạ là một thông lệ từ lâu của các đạo sĩ Ấn
Độ khi tăng đoàn Phật giáo hãy còn chưa xuất hiện. Thời
tiết Ấn Độ có vẻ khác hơn Việt Nam hay Trung Quốc cũng
như các quốc gia khác: Từ tháng một đến tháng tư là mùa
xuân, từ tháng chín đến tháng mười hai là mùa đông. Ấn
Độ không có mùa thu. Một năm chia làm ba mùa rõ rệt như
thế, nên các đạo sĩ qui định vào những tháng mưa gió nên
an trú một nơi nhất định để bảo tồn sức khoẻ và tăng
cường đạo lực. Giáo đoàn Phật giáo hợp thức hoá thông
lệ này bắt đầu từ Lục quần Tỳ kheo (sáu thầy tỳ kheo
chuyên gia khai duyên cho Phật chế giới). Suốt mấy tháng mùa
mưa, nhóm sáu thầy tỳ kheo này lang thang du hoá khắp nơi không
kể gì mưa gió, đạp dẫm lên hoa cỏ mùa màng mới đâm chồi
hay những loài côn trùng vừa sanh nở. Cư sĩ chê trách hàng
sa môn Thích tử thật quá đáng, các đạo sĩ khác vẫn có
những tháng sống cố định, ngay đến loài cầm thú vẫn
có mùa trú ẩn của nó, còn các vị hành đạo này thì luông
tuồng không biết nghỉ chân vào mùa nào cả. Lúc ấy, đức
Phật ở tại nước Xá Vệ, trong thành Cấp Cô Độc, biết
được sự việc xảy ra liền ban hành quyết định cấm túc
an cư cho toàn thể tăng đoàn trong các tháng đầu mùa mưa,
tức từ mồng một trăng tròn của tháng A-sa-đà đến hết
trăng tròn của tháng A-thấp-phược-đê-xà (Theo ngài Huyền
Trang là nhằm 16 tháng 5 của Trung Quốc, sau vì muốn lấy ngày
rằm tháng bảy Vu Lan làm ngày Tự tứ nên chọn ngày An cư
là 16 tháng 4). Phật giáo Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc
này nhưng thời gian có khác một chút. Nghĩa là thời tiết
Việt Nam tuy thể hiện rõ rệt chỉ có hai mùa nắng và mùa
mưa, nhưng vẫn qui định theo bốn mùa như Trung Quốc: xuân,
hạ, thu, đông. Như vậy thời điểm để tu sĩ Phật giáo
Việt Nam an cư là bắt đầu từ ngày rằm tháng 4 đến rằm
tháng 7 (mùa hạ), đó gọi là tiền an cư. Hậu an cư là dành
cho trường hợp đặc biệt, có duyên sự khẩn thiết thì
có thể bắt đầu an cư từ 17 - 4 cho đến 17 - 5, và kết
thúc dĩ nhiên cũng phải đủ 90 ngày như tiền an cư (cùng
làm lễ Tự tứ, nhưng phải ở lại cho đủ số ngày). Riêng
hệ phái Nguyên Thuỷ chọn thời điểm kiết hạ vào ngày
rằm tháng 6 cho đến ngày rằm tháng 9. Tuỳ theo quốc độ,
địa phương mà có những mùa an cư không hoàn toàn giống
nhau, ở Việt Nam, một vài nơi còn có thêm kiết đông bắt
đầu từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 12 là dựa theo tinh thần
của Luật Bồ Tát.
Vì
sao lại phát sinnh thêm kiết đông thay vì chỉ có kiết hạ?
Có phải an cư là thời gian để tăng già tích luỹ nguốn
sinh lực hay không?
Hàng
xuất gia trong giáo đoàn Phật giáo bao giờ cũng tâm niệm
hai nhiệm vụ cần phải sớm thành tựu: thượng cầu Phật
đạo và hạ hóa chúng sanh. Song lộ trình tiến đến quả
vị Phật hay Thánh quả thật gian truân cách trở, không phải
là vấn đề một sớm một chiều hay một kiếp. Vì vậy việc
tự lợi là một nhu cầu cần thiết cho bất cứ một hành
giả nào còn vương mang pháp hữu lậu, chưa có phần dự vào
dòng Thánh. Nếu như thời gian dành cho việc đi lại bên ngoài
quá nhiều, mà căn bản phiền não vẫn còn sâu kín bên trong
thì kết quả hoàn toàn sai với tinh thần hóa độ của đức
Phật. Người bị trói tất nhiên không bao giờ cởi trói được
cho người khác. Người có thật nhiều hạnh phúc, vượt lên
trên những khổ đau triền phược mới có thể đưa người
ra khỏi dòng tục bến mê. Hóa độ thì xem như chia phần,
bớt đi. Mặc dù một ngọn đèn có thể thắp sáng hàng trăm
nghìn ngọn đèn khác. Song một khi ngọn đèn ra trước gió,
thì sự an nguy cũng giống như một người hành đạo chưa
liễu đạo mà phải đương đầu với ngũ dục trần lao. Thế
mới biết, an cư là thời gian quý báu để người tu hành
có điều kiện nhìn lại chính mình, soi thấu bệnh tật phiền
não hoặc mới huân tập hoặc lâu đời mà đoạn trừ, trị
liệu. Ngoài ra việc tránh ngộ sát côn trùng hay không ảnh
hưởng mùa màng của người thế tục cũng là một duyên cớ
để trưởng dưỡng lòng từ bi. Song lý do trước mới là
tinh thần chính yếu của việc cấm túc an cư.
Bộ
Luật Tư Trì Ký định nghĩa: Lập tâm một chỗ gọi là Kiết;
bộ Nghiệp Sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh
gọi là An. Như vậy dù kiết hạ hay kiết đông an cư thì
mục đích chính vẫn là thúc liễm thân tâm, trau dồi giới
đức. Tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào không quan tâm đến việc
tu tập thiền định để bồi dưỡng trí tuệ thì thật không
xứng đáng là bậc mô phạm tỉnh thức. Sự khắc khe này
cũng chỉ vì đức Phật muốn bảo hộ sức sống của tăng-già
bằng việc triển khai năng lực tu tập của mỗi cá nhân.
Nếu ai trong hàng xuất gia đệ tử Phật không tôn kính vâng
giữ lời huấn thị của đức Phật, xem an cư là một điều
bó buộc, một phương tiện nhỏ nhặt thì quả thật người
ấy không những tự chối bỏ phần tự lợi mà gây ảnh hưởng
không tốt cho tăng đoàn. Cũng như bác nông phu mỗi năm phải
làm ruộng, nếu năm nào bỏ bê không chăm lo đến mùa màng
thì bác sẽ bị nghèo nàn đói thiếu. Hàng Bí Sô nếu không
có những ngày tháng cùng sinh hoạt cộng trú để sách tấn
lẫn nhau thì làm sao có điều kiện để tạo thành năng lực
hoà hợp và kiểm chứng giá trị thanh tịnh? Kết thúc khoá
an cư là Tự Tứ, một hình thức tối quan trọng để tổng
kết quá trình tu tập tiến triển hay lui sụt của từng cá
nhân qua ba tiêu chuẩn: thấy, nghe, nghi. Những ai vượt ra khỏi
phạm vi giới luật, buông lung theo ba nghiệp, hành động theo
bản năng cố hữu thì sẽ bị cử tội giữa đại chúng để
bổ khuyết sửa chữa.
Một
lần, sau mùa an cư các thầy tỳ kheo lần lượt về vấn an
đức Phật và trình bày công phu tu tập của mình. Đức Phật
hỏi:
- Vừa
qua các ông có được an lạc không?
- Thưa
an lạc lắm ạ!
- Thế
trong ba tháng ấy các ông tu tập pháp gì?
Các
thầy tỳ kheo vui vẻ trả lời:
- Bạch
Thế Tôn, chúng con thực hành pháp tịnh khẩu, tự mỗi người
giữ im lặng tuyệt đối.
- Đức
Phật quở trách:
- Các
ông thật vô trí, được sống chung sao không chịu trao đổi
hay nhắc nhở nhau tu tập mà lại thực hiện pháp câm như
thế, vậy an cư được lợi ích gì chứ? Các ông phải luôn
sinh hoạt trong niệm đoàn kết, trên dưới thuận hoà, cùng
thống nhất ý kiến, cùng bàn bạc trao đổi và học hỏi
lẫn nhau, lẽ nào không thấy được giá trị của thấy, nghe
và nghi làm tiêu chuẩn để thanh lọc mỗi người. Các ông
đã bỏ phí một mùa an cư. Các ông đã hành động phi pháp.
Năng
lực của đại chúng quả thật như biển (Đức chúng như
hải) sẽ nâng đỡ những con thuyền lành tốt, khôn khéo chiều
theo từng đợt sóng, và sẽ đào thải tất cả những con
thuyền hư thủng ra khỏi lòng đại dương. Tăng đoàn muốn
hòa hợp theo đúng bản chất của nó như nước với sữa
thì buộc mỗi cá nhân phải tự nỗ lực, trang nghiêm chính
mình. Ngày nay, những người trí thức ở phương Tây luôn
tranh thủ cho mình một khoảng thời gian một tháng hay nhiều
hơn trong năm để tu nghiệp, tức là bồi dưỡng thêm nghề
nghiệp. Người tu sĩ Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp
lẽ nào không đầu tư vào công phu thiền định. Không có
thời gian để cùng nhau nhắc nhở giới luật. Tứ niệm xứ,
Tứ thánh chủng… Một mình một cõi du hóa lơ lỏng trong
nhân gian thì rất khó cho việc thành tựu tuệ giác, hóa độ
viên mãn.
Cũng
như những giáo hội khác, ngày nay ở Việt Nam không còn giống
như thời Phật ở Ấn Độ là hàng xuất gia không phải mỗi
người du hóa một phương, mang theo ba y một bình bát và ngủ
dưới gốc cây, nhưng lối sống theo từng tông phái, chùa
riêng, tổ đình riêng, thầy riêng đệ tử riêng thì cũng
xem như rời rạc, chưa đoàn kết hoà hợp. Vì lẽ chưa dung
hoà đó mà Kiết hạ an cư đã trở thành qui luật rất cần
thiết để làm phương thuốc hồi sinh, làm sống lại tình
Linh Sơn cốt nhục mà lắm lúc vì những nguyên do gì đó,
vì bệnh nghiệp cá biệt nào đó đã làm cho anh em cùng nhà
phải bút chiến, khẩu chiến phân tranh cao hạ, làm cho sư
tử phải trọng thương chỉ vì loài trùng ăn gặm trong thân
sư tử. Hơn nữa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay nhắm
vào tinh thần thống nhất về tổ chức (thống nhất ý chí
và hành động) thì Kiết hạ an cư là một phương tiện thuận
lợi cho giáo hội xây dựng tăng đoàn đoàn kết hòa hợp
và thống nhất mọi mặt theo phương châm: “Đạo pháp - Dân
tộc - chủ nghĩa xã hội”.
Rõ
ràng, ba tháng an cư, cửu tuần tu học đích thực là nguồn
năng lực quí báu làm nóng lại và bền vững hơn tinh thần
thanh tịnh hòa hợp của tăng-già. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn
thấy sự hưng thịnh của Phật pháp khi chốn tòng lâm ngày
ngày giới luật nghiêm minh, đêm đêm toạ thiền niệm Phật,
trên dưới hoà hợp, tu tập trong niệm đoàn kết an hoà.
Mùa
An Cư - PL 2544
Thích
Chơn Thanh.