Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

11. Thọ giới

04 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 7919)
11. Thọ giới

BÓNG ÁO NÂU
TẬP SÁCH VỀ CUỘC ĐỜI THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN THANH

Phần II: Truyện ký Bóng áo nâu
Ðồng tác giả:
Thu Nguyệt - Ðỗ Thiền Ðăng - Thiện Bảo

Thọ giới

Mấy huynh đệ, như thường lệ, mỗi cuối năm, lại về chùa thầy tổ, phụ giúp thầy chăm sóc vườn tược, quét dọn đồ đạc chuẩn bị đón xuân. Ngày tết, mấy chú cũng phải chia nhau xuống bếp phụ rửa chén, dọn cơm. Không như một số chùa khác, “treo” chuông mõ từ hôm đưa ông táo về trời, mấy ngày tết ở Phước Lâm vẫn kinh kệ ngày bốn thời đều đặn. Cũng như ngày trước, thầy ngồi dưới phòng lắng tai nghe, hễ không thấy rõ tiếng tụng kinh của chú nào là y như rằng ngay sau buổi lễ chú đó liền bị thầy kêu lên phòng quở mắng.

Ðó là mùa xuân năm 1969. Thời khắc giao thừa. Niềm vui bùng lên trong tiếng pháo mừng rộn rã. Bảy hồi chuông trống Bát Nhã ngân vang. phật tử lần lượt kéo nhau lên chùa dự khóa lễ đầu năm, cầu nguyện cho một năm yên mới yên bình, nhân dân thoát khỏi nạn binh đao, máu lửa.

Sau khóa lễ, chư huynh đệ vẫn y áo chỉnh tề, bưng khay trầm sang phòng mừng tuổi sư phụ. Thầy mặc hậu vàng, trông rất nghiêm trang. Nhìn chúng đệ tử, thầy cảm thấy lòng dâng lên một niềm hoan hỷ. Ít ra thì một số đệ tử của thầy cũng đã trưởng thành. Chơn Thanh, Chơn Hòa tuy còn Sa di nhưng cũng đã được trui rèn nhiều năm tại các Phật học viện. Tính đến năm nay, hai chú vừa tròn hai mươi tuổi. Ðã đến lúc phải cho các chú thọ giới cụ túc.

Sau khi chúng đệ tử chúc tết xong, thầy lì xì mỗi chú một chiếc bao giấy đỏ, rồi thầy cho phép mấy chú ngồi xuống quanh thầy. Giọng nghiêm trang nhưng thân tình, thầy nói:

- Năm nay Huệ Nghiêm mở đại giới đàn, thầy định cho Chơn Thanh và Chơn Hòa thọ Cụ túc giới, mấy chú lớn nghĩ sao?

Chơn Hiền nói: 

- Thưa thầy, con thấy Chơn Thanh, Chơn Hòa đã đủ tuổi thọ giới. Với lại các chú ở Phật học viện bốn năm rồi, trình độ Phật học chắc cũng đủ...

 Thầy cười: 

- Ừ, thì mấy chú thấy được là được rồi!

 Im lặng một lát, thầy tiếp: 

- Mai mốt đến kỳ Phật tử thọ bát, Chơn Thanh, Chơn Hòa lên tập giảng coi sao.

Chủ nhật, tuy vẫn còn “mùng”, nhưng sư phụ Thiện Thọ cũng tổ chức cho Phật tử thọ Bát quan trai giới. Bảy giờ rưỡi sáng, Phật tử tề tựu đầy đủ ở chùa, đợi thầy lên truyền giới. Nguyên ngày hôm đó, phật tử chuyên ròng kinh hành, niệm Phật, nghe giảng, quả đường... nghiêm cẩn y như quí thầy đang mùa An cư kiết hạ vậy. 

Buổi chiều, sau giờ chỉ tịnh xong, quí phật tử đã thiết pháp tòa đâu vào đó. Pháp tòa là một chiếc bàn nhỏ trải khăn xanh với một bình hoa cúc vàng trông khá nổi bật. Pháp sư Chơn Thanh mặc một chiếc hậu lam, không khác gì chiếc áo tràng của Phật tử mấy, chỉ có ống tay áo là rộng và dài hơn, chuẩn bị “đăng lâm pháp tòa”. Chơn Thanh cảm thấy run quá, vì đây cũng là lần đầu tiên chú đứng giảng trước rất nhiều Phật tử. Kỳ thực, ở Phật học viện, học tăng được học khá vững về kỹ năng thuyết giảng. Bên cạnh sư huynh Thiện Tri, Minh Huệ thuyết giảng rất vững và đi giảng nhiều đạo tràng ra, thì Chơn Thanh cũng là một trong những người có nhiều triển vọng nhờ chất giọng tự nhiên, vui và có phần tươi trẻ. Ðề tài Chơn Thanh tâm đắc phần nhiều gần gũi với đời sống tu tập của phật tử, nên chú cảm nhận rằng nếu mình thực sự ra giảng thì chắc cũng tạo được ít nhiều ích lợi cho những người bước đầu học Phật, tập tu. Mỗi lần huynh Minh Huệ đi giảng đâu đó, Chơn Thanh cũng đều xin theo, phần để học hỏi kinh nghiệm, phần cũng nhằm trợ lực, gây cảm hứng cho huynh bằng những câu hỏi thú vị nhưng không kém phần hóc búa

Bây giờ, ngồi trên pháp tòa, phía dưới là hàng trăm con mắt đang đổ dồn về phía mình, Chơn Thanh không khỏi cảm thấy mất tự chủ. Toàn là người quen. Họ biết chú từ khi chú mới về chùa, thậm chí đã từng thỉnh thoảng thấy chú bị phạt quì hương chung với mấy chú khác vì tội nghịch ngợm. Những cặp mắt hướng về phía chú vì tò mò nhiều hơn là chờ đợi nghe pháp. Mèn ơi, cái chú Bé hôm nào đây mà, đi học mấy năm về thấy chững chạc dữ ha? Hỗng biết có giảng được không đây? Chơn Thanh như đọc được những câu nói đó trong mắt của các phật tử. Chú thầm niệm Phật cầu gia hộ rồi điều hòa hơi thở như lúc tập ngồi thiền. Chú đưa ánh mắt nhìn khắp đạo tràng, lòng thầm nhủ: mình phải xem họ như những ngươi thân rất gần gũi với mình, có sự giao cảm ấy thì người nói người nghe mới không có khoảng cách nặng nề làm mình lo âu, ngượng ngập. Rồi chú từ tốn bắt đầu: “Kính thưa quý phật tử trong Ðạo tràng Bát quan trai giới, nhân dịp đầu năm, chắc hương vị tết vẫn ít nhiều phảng phất trong lòng quí phật tử, vì vậy, hôm nay, chúng tôi xin nói với quí phật tử về hạnh nguyện của ngài Di lặc, Ðức Phật tương lai của chúng ta...”. Nói xong câu mào đầu, Chơn Thanh cảm thấy tự tin hẳn. Chú bắt đầu giảng một cách trơn tru, sinh động. Những cặp mắt tò mò dần dần ánh nên niềm ngạc nhiên, thích thú. Ðó là một trong những bước rèn luyện để chú cảm thấy vững chân bước vào đại giới đàn thọ giới để trở thành một tỳ kheo

Mùa Hạ năm 1969, Phật học viện Huệ Nghiêm khai Ðại giới đàn miền Quảng Ðức. Chơn Thanh, Chơn Hòa và hàng trăm huynh đệ các lớp Trung đẳng Phật học được chư tôn đức cho phép thọ Ðại giới, chính thức dự vào hàng Tam Bảo

Hơn một ngàn giới tử tựu về Phật học viện Huệ Nghiêm, gồm giới tử nội viện lẫn giới tử ngoại viện. Giới đàn cung thỉnh Hòa thượng Hải Tràng làm Ðàn đầu Hòa thượng. Ngoài ra, Tam sư, Thất chứng, có các vị Hòa thượng như: HT. Trí Tịnh, HT. Hành Trụ, HT. Phước Cần, HT. Thiện Hòa, HT. Thiện Thành, HT. Huệ Hưng... Tất cả đều là những vị danh sư. Chơn Thanh cảm thấy rất hãnh diện khi được quí ngài truyền trao giới pháp. Bởi vì, thọ giới, không những là bước ngoặc quan trọng trong suốt cả cuộc đời tu hành, mà còn kiến tạo năng lực hộ trì tam nghiệp cho việc tiến tới quả tu giải thoát. Chơn Thanh rất hiểu điều đó, nên trong lòng chú không ngừng rung lên những xúc cảm mãnh liệt.

Những giới tử nội viện vượt qua kỳ khảo hoạch một cách khá dễ dàng, vì đa số những câu hỏi đều nằm trong các bài giáo lý căn bản mà mấy huynh đệ đã được học rất kỹ trong suốt mấy năm qua.

Khi lễ truyền trao giới pháp chính thức được cử hành, một cảm giác rất lạ đột ngột dâng lên trong lòng Chơn Thanh. Chú ngước nhìn chư vị Tam sư, Thất chứng. Quí ngài trông uy nghiêm quá! Một trong những giờ phút thiêng liêng nhất trong cuộc đời của một người tu là đây. Khi cúi đầu hướng về phương Bắc đảnh lễ cha mẹ lần cuối cùng, nước mắt Chơn Thanh chợt trào ra. Kể từ giờ phút này, chú trọn lòng với đạo pháp, dứt hết những hệ lụy của cuộc đời. Trong trí tưởng của chú hiện lên rõ mồn một hình ảnh ba má ngày tiễn chú đi xuất gia... 

Lời của Hòa thượng Ðàn đầu cắt ngang dòng suy tưởng của Chơn Thanh. Ngài khai đạo giới tử: “Các giới tử lóng nghe! Ba đời chư Phật đều do xuất gia mà được thành đạo; lịch đại Tổ sư truyền Phật tâm ấn đều là bậc sa môn, do nghiêm trì giới luật thanh tịnh mới có thể hoằng truyền chánh pháp. Cho nên tham thiền học đạo, giới luật làm trước. Nếu không tránh lỗi ngừa quấy, thì làm sao mà thành Phật tác Tổ được. Bởi thế, người thọ trì giới này, giữ đủ luật nghi của Phật, sẽ được Phật thọ dụng...”

Giới tử bước lên thọ lãnh giới pháp được chia làm nhiều đàn, mỗi đàn ba vị. Chơn Thanh, Chơn Hòa và Chơn Tánh cùng một đàn. Ba vị cúi lạy chư vị hòa thượng để thọ lãnh giới pháp từ quí ngài. Ðây là bốn pháp Ba la di, đây là mười ba pháp Tăng tàn, hai pháp Bất định, ba mươi tội Xả đọa, chín mươi Tội đọa, bốn tội Hối quá, một trăm pháp Chúng học, bảy pháp Diệt tránh - tổng cộng thọ lãnh 250 giới. Này là y An đà hội, này là y Uất đa la tăng, y Tăng già lê; này là bát; này là tọa cụ; này đãy lọc nước. Tất cả vật dụng của một vị tỳ kheo thường phải mang theo bên mình cũng đã được truyền trao. Kể từ giờ phút này, Chơn Thanh chính thức gia nhập hội chúng Tăng già, trở thành một thầy Tỳ kheo. Như một luồn điện chạy dọc xống lưng, Chơn Thanh nghe như có một sức mạnh hộ trì lan tỏa khắp người. Mình đã đắc giới! - Chơn Thanh nghĩ - mình không còn là một Sa di nữa mà đã là một tỳ kheo. Một Tỳ kheo, ngoài việc nghiêm trì giới luật, còn phải xả thân hành đạo, phải luôn luôn sống vì lợi ích của số đông. Tỳ kheo thì phải có trọng trách với Ðạo pháp, với sự hưng suy của Ðạo pháp. Phải xoa đầu để luôn luôn tự nhắc nhở mình: mình là một Tỳ kheo! Này là điều nên làm. Này là điều không nên làm. Này là con đường đưa đến an lạc, giải thoát. Này là con đường đưa đến sự ràng buộc, khổ đau...

Những lời giáo huấn của Ðức Phật mấy ngàn năm trước như đang vang vọng trong lòng Chơn Thanh. Mình khoát ba y, tay ôm bình bát, thầy nghe lòng mình lắng dịu sâu sắc một nỗi niềm an lạc lạ kỳ

Sau khi thọ giới, thầy cùng nhiều huynh đệ khác thường được Ban lãnh chúng cử đi thuyết giảng các nơi. Khi thì Bình Long, Tiền Giang, khi thì Trà Vinh, Vũng Tàu... Ðối với thầy, thuyết giảng là một Phật sự quan trọng. Nhờ những chuyến đi xa, thầy cảm nhận rất rõ niềm khao khát chánh pháp mãnh liệt của phật tử. Thầy hiểu những bài pháp của mình tuy chưa sâu sắc, tuy chưa có nền tảng thực chứng như quí hòa thượng, song, trong chừng mực nào đó, đây cũng chính là những liều thuốc quí, có công năng hóa giải bớt những nỗi khổ đau, mất mát, đem lại nguồn sống tươi mới cho một số người. 

Cảm nhận sâu hơn trọng trách của mình, thầy tâm nguyện được dấn thân vì đạo pháp. Nhiều lần thầy đến giảng tại các vùng sâu, vùng xa, phương tiện đi lại khó khăn, đôi khi kẹt lại ở đó đến vài ngày. Gian khổ nhưng vui, niềm vui rất thật - vui vì đem chánh pháp đến cho người. Những lúc ấy, thầy thường nhớ lại và nhẩm đọc bài học thuở nhỏ sư phụ Thiện Thọ vẫn bắt đọc mỗi buổi sáng trước khi tập thể dục: “Nơi nào Chánh pháp cần, con đến; nơi nào chúng sanh cần, con đi. Không quản gian lao, không nề khó nhọc...”

Ðó là quãng vào những ngày sau tết năm 1971. Thầy cảm thấy mình đã cứng cáp, tự tin hơn nhiều trong những lần thuyết giảng. Thầy nhận thấy những vị thầy của mình ở trường, ngoài việc rất uyên thâm giáo điển ra, mỗi vị còn có một “chiêu thức” riêng để thu hút thính chúng. Hòa thượng Huyền Vi thì độc đáo bởi vốn ngoại ngữ sâu rộng, ngài có thể chú nghĩa các thuật ngữ Phật học bằng tiếâng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali. Hòa thượng Từ Thông thì đặc sắc bởi khiếu vẽ - với một viên phấn và vài nét phác họa, một con cò hay một bụi trúc hiện ra trông hết sức sống động. Thầy không có những nét độc đáo như quí ngài, vì vậy, thầy chọn cách tạo cho mình không khí tự nhiên, gần gũi, thân mật đối với thính chúng. Bài giảng của thầy thường là những vấn đề thiết thực với cuộc sống của mọi người, nên tuy còn trẻ, thầy vẫn được rất nhiều phật tử quí kính.

An cư kiết hạ

nguồn sinh lực của tăng già

An cư kiết hạ là một thông lệ từ lâu của các đạo sĩ Ấn Độ khi tăng đoàn Phật giáo hãy còn chưa xuất hiện. Thời tiết Ấn Độ có vẻ khác hơn Việt Nam hay Trung Quốc cũng như các quốc gia khác: Từ tháng một đến tháng tư là mùa xuân, từ tháng chín đến tháng mười hai là mùa đông. Ấn Độ không có mùa thu. Một năm chia làm ba mùa rõ rệt như thế, nên các đạo sĩ qui định vào những tháng mưa gió nên an trú một nơi nhất định để bảo tồn sức khoẻ và tăng cường đạo lực. Giáo đoàn Phật giáo hợp thức hoá thông lệ này bắt đầu từ Lục quần Tỳ kheo (sáu thầy tỳ kheo chuyên gia khai duyên cho Phật chế giới). Suốt mấy tháng mùa mưa, nhóm sáu thầy tỳ kheo này lang thang du hoá khắp nơi không kể gì mưa gió, đạp dẫm lên hoa cỏ mùa màng mới đâm chồi hay những loài côn trùng vừa sanh nở. Cư sĩ chê trách hàng sa môn Thích tử thật quá đáng, các đạo sĩ khác vẫn có những tháng sống cố định, ngay đến loài cầm thú vẫn có mùa trú ẩn của nó, còn các vị hành đạo này thì luông tuồng không biết nghỉ chân vào mùa nào cả. Lúc ấy, đức Phật ở tại nước Xá Vệ, trong thành Cấp Cô Độc, biết được sự việc xảy ra liền ban hành quyết định cấm túc an cư cho toàn thể tăng đoàn trong các tháng đầu mùa mưa, tức từ mồng một trăng tròn của tháng A-sa-đà đến hết trăng tròn của tháng A-thấp-phược-đê-xà (Theo ngài Huyền Trang là nhằm 16 tháng 5 của Trung Quốc, sau vì muốn lấy ngày rằm tháng bảy Vu Lan làm ngày Tự tứ nên chọn ngày An cư là 16 tháng 4). Phật giáo Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc này nhưng thời gian có khác một chút. Nghĩa là thời tiết Việt Nam tuy thể hiện rõ rệt chỉ có hai mùa nắng và mùa mưa, nhưng vẫn qui định theo bốn mùa như Trung Quốc: xuân, hạ, thu, đông. Như vậy thời điểm để tu sĩ Phật giáo Việt Nam an cư là bắt đầu từ ngày rằm tháng 4 đến rằm tháng 7 (mùa hạ), đó gọi là tiền an cư. Hậu an cư là dành cho trường hợp đặc biệt, có duyên sự khẩn thiết thì có thể bắt đầu an cư từ 17 - 4 cho đến 17 - 5, và kết thúc dĩ nhiên cũng phải đủ 90 ngày như tiền an cư (cùng làm lễ Tự tứ, nhưng phải ở lại cho đủ số ngày). Riêng hệ phái Nguyên Thuỷ chọn thời điểm kiết hạ vào ngày rằm tháng 6 cho đến ngày rằm tháng 9. Tuỳ theo quốc độ, địa phương mà có những mùa an cư không hoàn toàn giống nhau, ở Việt Nam, một vài nơi còn có thêm kiết đông bắt đầu từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 12 là dựa theo tinh thần của Luật Bồ Tát.

Vì sao lại phát sinnh thêm kiết đông thay vì chỉ có kiết hạ? Có phải an cưthời gian để tăng già tích luỹ nguốn sinh lực hay không?

Hàng xuất gia trong giáo đoàn Phật giáo bao giờ cũng tâm niệm hai nhiệm vụ cần phải sớm thành tựu: thượng cầu Phật đạohạ hóa chúng sanh. Song lộ trình tiến đến quả vị Phật hay Thánh quả thật gian truân cách trở, không phải là vấn đề một sớm một chiều hay một kiếp. Vì vậy việc tự lợi là một nhu cầu cần thiết cho bất cứ một hành giả nào còn vương mang pháp hữu lậu, chưa có phần dự vào dòng Thánh. Nếu như thời gian dành cho việc đi lại bên ngoài quá nhiều, mà căn bản phiền não vẫn còn sâu kín bên trong thì kết quả hoàn toàn sai với tinh thần hóa độ của đức Phật. Người bị trói tất nhiên không bao giờ cởi trói được cho người khác. Người có thật nhiều hạnh phúc, vượt lên trên những khổ đau triền phược mới có thể đưa người ra khỏi dòng tục bến mê. Hóa độ thì xem như chia phần, bớt đi. Mặc dù một ngọn đèn có thể thắp sáng hàng trăm nghìn ngọn đèn khác. Song một khi ngọn đèn ra trước gió, thì sự an nguy cũng giống như một người hành đạo chưa liễu đạo mà phải đương đầu với ngũ dục trần lao. Thế mới biết, an cưthời gian quý báu để người tu hànhđiều kiện nhìn lại chính mình, soi thấu bệnh tật phiền não hoặc mới huân tập hoặc lâu đời mà đoạn trừ, trị liệu. Ngoài ra việc tránh ngộ sát côn trùng hay không ảnh hưởng mùa màng của người thế tục cũng là một duyên cớ để trưởng dưỡng lòng từ bi. Song lý do trước mới là tinh thần chính yếu của việc cấm túc an cư.

Bộ Luật Tư Trì Ký định nghĩa: Lập tâm một chỗ gọi là Kiết; bộ Nghiệp Sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh gọi là An. Như vậy dù kiết hạ hay kiết đông an cư thì mục đích chính vẫn là thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức. Tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào không quan tâm đến việc tu tập thiền định để bồi dưỡng trí tuệ thì thật không xứng đáng là bậc mô phạm tỉnh thức. Sự khắc khe này cũng chỉ vì đức Phật muốn bảo hộ sức sống của tăng-già bằng việc triển khai năng lực tu tập của mỗi cá nhân. Nếu ai trong hàng xuất gia đệ tử Phật không tôn kính vâng giữ lời huấn thị của đức Phật, xem an cư là một điều bó buộc, một phương tiện nhỏ nhặt thì quả thật người ấy không những tự chối bỏ phần tự lợi mà gây ảnh hưởng không tốt cho tăng đoàn. Cũng như bác nông phu mỗi năm phải làm ruộng, nếu năm nào bỏ bê không chăm lo đến mùa màng thì bác sẽ bị nghèo nàn đói thiếu. Hàng Bí Sô nếu không có những ngày tháng cùng sinh hoạt cộng trú để sách tấn lẫn nhau thì làm sao có điều kiện để tạo thành năng lực hoà hợp và kiểm chứng giá trị thanh tịnh? Kết thúc khoá an cưTự Tứ, một hình thức tối quan trọng để tổng kết quá trình tu tập tiến triển hay lui sụt của từng cá nhân qua ba tiêu chuẩn: thấy, nghe, nghi. Những ai vượt ra khỏi phạm vi giới luật, buông lung theo ba nghiệp, hành động theo bản năng cố hữu thì sẽ bị cử tội giữa đại chúng để bổ khuyết sửa chữa.

Một lần, sau mùa an cư các thầy tỳ kheo lần lượt về vấn an đức Phật và trình bày công phu tu tập của mình. Đức Phật hỏi:

- Vừa qua các ông có được an lạc không?

- Thưa an lạc lắm ạ!

- Thế trong ba tháng ấy các ông tu tập pháp gì?

Các thầy tỳ kheo vui vẻ trả lời:

- Bạch Thế Tôn, chúng con thực hành pháp tịnh khẩu, tự mỗi người giữ im lặng tuyệt đối.

- Đức Phật quở trách

- Các ông thật vô trí, được sống chung sao không chịu trao đổi hay nhắc nhở nhau tu tập mà lại thực hiện pháp câm như thế, vậy an cư được lợi ích gì chứ? Các ông phải luôn sinh hoạt trong niệm đoàn kết, trên dưới thuận hoà, cùng thống nhất ý kiến, cùng bàn bạc trao đổihọc hỏi lẫn nhau, lẽ nào không thấy được giá trị của thấy, nghe và nghi làm tiêu chuẩn để thanh lọc mỗi người. Các ông đã bỏ phí một mùa an cư. Các ông đã hành động phi pháp.

Năng lực của đại chúng quả thật như biển (Đức chúng như hải) sẽ nâng đỡ những con thuyền lành tốt, khôn khéo chiều theo từng đợt sóng, và sẽ đào thải tất cả những con thuyền hư thủng ra khỏi lòng đại dương. Tăng đoàn muốn hòa hợp theo đúng bản chất của nó như nước với sữa thì buộc mỗi cá nhân phải tự nỗ lực, trang nghiêm chính mình. Ngày nay, những người trí thức ở phương Tây luôn tranh thủ cho mình một khoảng thời gian một tháng hay nhiều hơn trong năm để tu nghiệp, tức là bồi dưỡng thêm nghề nghiệp. Người tu sĩ Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp lẽ nào không đầu tư vào công phu thiền định. Không có thời gian để cùng nhau nhắc nhở giới luật. Tứ niệm xứ, Tứ thánh chủng… Một mình một cõi du hóa lơ lỏng trong nhân gian thì rất khó cho việc thành tựu tuệ giác, hóa độ viên mãn.

Cũng như những giáo hội khác, ngày nay ở Việt Nam không còn giống như thời Phật ở Ấn Độ là hàng xuất gia không phải mỗi người du hóa một phương, mang theo ba y một bình bát và ngủ dưới gốc cây, nhưng lối sống theo từng tông phái, chùa riêng, tổ đình riêng, thầy riêng đệ tử riêng thì cũng xem như rời rạc, chưa đoàn kết hoà hợp. Vì lẽ chưa dung hoà đó mà Kiết hạ an cư đã trở thành qui luật rất cần thiết để làm phương thuốc hồi sinh, làm sống lại tình Linh Sơn cốt nhục mà lắm lúc vì những nguyên do gì đó, vì bệnh nghiệp cá biệt nào đó đã làm cho anh em cùng nhà phải bút chiến, khẩu chiến phân tranh cao hạ, làm cho sư tử phải trọng thương chỉ vì loài trùng ăn gặm trong thân sư tử. Hơn nữa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay nhắm vào tinh thần thống nhất về tổ chức (thống nhất ý chí và hành động) thì Kiết hạ an cư là một phương tiện thuận lợi cho giáo hội xây dựng tăng đoàn đoàn kết hòa hợp và thống nhất mọi mặt theo phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc - chủ nghĩa xã hội”.

Rõ ràng, ba tháng an cư, cửu tuần tu học đích thực là nguồn năng lực quí báu làm nóng lại và bền vững hơn tinh thần thanh tịnh hòa hợp của tăng-già. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn thấy sự hưng thịnh của Phật pháp khi chốn tòng lâm ngày ngày giới luật nghiêm minh, đêm đêm toạ thiền niệm Phật, trên dưới hoà hợp, tu tập trong niệm đoàn kết an hoà.

Mùa An Cư - PL 2544

Thích Chơn Thanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34225)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16805)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22841)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 12980)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21847)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22064)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14820)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23437)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 23985)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23522)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17067)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19283)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 26919)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14339)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13791)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22617)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14668)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17285)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12599)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13773)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10337)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14609)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17142)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12475)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12637)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10304)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28632)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10637)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11067)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16827)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15719)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13290)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12505)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11282)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 12968)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19242)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12185)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28469)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10001)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21416)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12753)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17775)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26075)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11645)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10799)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22644)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 11989)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10561)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11345)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11485)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant