BÓNG
ÁO NÂU
TẬP
SÁCH VỀ CUỘC ĐỜI THƯỢNG TỌA THÍCH CHƠN THANH
Phần III:
Những bài
viết về thầy
Ðời
người & tâm nguyện
Thượng
tọa Thích Chơn Thanh viên tịch vào thời điểm chín muồi
của tài năng và trí tuệ. Nguồn tinh ba ấy vốn đã được
trui rèn, phát triển suốt ba thập niên dưới mái trường
Phật học viện Huệ Nghiêm – một đại tòng lâm đào tạo
tăng tài nổi tiếng nhất miền Nam vào giữa thế kỷ thứ
XX. Vậy mà hôm nay, khi mà trung ương giáo hội đang đặt nhiều
kỳ vọng vào thầy, vậy mà trong thoáng chốc người đã ra
đi...
Mới
hôm trước, vừa gặp tôi tại lễ ra mắt Ban đại diện PG
quận Bình Thạnh, thầy liền hỏi: “Lúc này con còn ở chùa
không?”. Sau khi nghe tôi bạch, thầy ân cần khuyên bảo: “Con
thấy đó, như tượng Bồ Tát Quan Thế Âm bằng đá nặng
mấy chục tấn ở chùa, vững chắc, uy nghi, được chăm sóc
giữ gìn kỹ thế mà vẫn “ bị tai nạn” gãy tay, sứt mẽ...
huống hồ chi con người. Do vậy, ở đời, dù có gặp
chuyện phiền não, thì cũng ráng tập nhẫn nhục để vượt
qua, rồi mọi việc sẽ đâu vào đó”. Sau đó mấy hôm, tôi
lại gặp thầy tại Văn phòng II để thực hiện bài phỏng
vấn về và công tác của Ban Hoằng pháp thành hội và vấn
đề tu chỉnh hiến chương của GHPGVN trong nhiệm kỳ V sắp
tới. Bài phỏng vấn ấy đã được ban biên tập duyệt, chưa
kịp đăng thì thầy đã rẽ sang cuộc hành trình mới. Trong
buổi gặp mặt lần cuối cùng ấy vào sáng ngày thứ tư 17
– 7 – 2002, thầy đã nói ra suy nghĩ của mình về đại hội
PG toàn quốc nhiệm kỳ V. Theo thầy thì vấn đề quan trọng
là phải chú trọng nhiều đến việc kiện toàn tổ chức.
Thầy
bảo rằng việc tu chỉnh hiến chương sẽ làm ảnh hưởng
không ít đến tính nhất quán của GH, vì thế, nếu có dự
hướng tu chỉnh hiến chương, ban thường trực HÐTS cần phải
chuẩn bị nội dung cho thật kỹ, để việc tu chỉnh đáp
ứng được nguyện vọng tâm tư của tăng ni, Phật tử toàn quốc, và nhất là phải phù hợp với xu hướng phát
triển của xã hội. Song song đó, việc sửa đổi các điều
trong nội qui hoạt động của các ban, ngành, viện, trung ương
cũng là điều mà GH phải quan tâm. Ðối với vấn đề cơ
cấu nhân sự vào các ban ngành phải đặc biệt chú trọng
đến những vị đầy đủ năng lực và phẩm hạnh. Ví dụ,
Ban Giáo dục tăng ni cần phải phát hiện và cơ cấu vào những
nhà giáo dục Phật giáo mô phạm, thực tài; Ban Hoằng
pháp cần phải có những vị giảng sư uyên bác về Phật
học lẫn thế học; Ban Tăng sự cần có những vị chân tu
đạo đức để tăng ni trẻ nương nhờ tu học, hành đạo
đúng phạm hạnh. Riêng Ban Tăng sự trung ương thì thầy có
đưa ra nhận định là trong nhiệm kỳ IV chưa có những qui
định khế hợp về việc xuất gia, do đó, đã từng xảy
ra tình trạng nhiều tăng ni từ nơi khác đến TP. HCM tu học,
khi có Phật sự trở lại địa phương của mình nhờ chính
quyền xác nhận giấy tờ còn nhiều khó khăn, chưa thực sự
được cảm thông, hỗ trơ.
Một
công tác khác của Ban Tăng sự đó là việc cho phép các Ban
trị sự tổ chức đại giới đàn nhưng lại thiếu sự
giám sát chặc chẽ. Thầy đưa ra ý kiến đề xuất rằng,
các Ban trị sự nên chăng phối hợp cùng nhau tổ chức đại
giới đàn liên tỉnh hoặc cụm, khu vực sẽ tiết kiệm rất
nhiều kinh phí và quan trọng hơn hết là việc tuyển chọn
tu sĩ thọ giới chắc chắn sẽ được sàng lọc kỹ càng,
chất lượng hơn là mỗi tỉnh tự đứng ra tổ chức như
lâu nay.
Khi
đề cập đến công tác hoằng pháp tại TP. HCM, với tư cách
là trưởng ban, thầy nhận định: Sau một thời gian thử nghiệm, sắp tới Ban Hoằng pháp thành hội sẽ họp bàn đưa
ra định hướng cụ thể cho từng giảng đường và các lớp
giáo lý. Trong nhiệm kỳ qua, Ban Hoằng pháp thành hội đã
phần nào thành công trong việc tạo điều kiện cho các
đạo tràng chuyên tu phát triển song song với các lớp giáo
lý. Ðiều mà thầy mong muốn nhất từ những đạo tràng đã
định hình như: Phật thất, Pháp Hoa, Thiền... trong tương
lai cần có thêm những bậc thầy chuyên tu của từng pháp
môn ấy để hướng dẫn cho tăng ni, Phật tử hành trì
đến nơi đến chốn.
Một
tâm nguyện lớn nhất của thầy đối với việc giáo dục
tăng ni là xây dựng lại Phật học viện nội trú Huệ Nghiêm
với qui mô ngang tầm, phù hợp với thời đại.
Hôm
nay, ngồi đọc lại những lời thầy bày tỏ, có việc thầy
đã làm tròn, đồng thời cũng có việc đang còn dở dang.
Cả đời mình, thầy đã vì Ðạo Pháp mà có biết bao ưu
tư trăn trở. Mong rằng những tâm nguyện của người sẽ
được thực hiện rốt ráo và hoàn mãn trong một tương lai
gần.
Phổ
Tâm
An
cư kiết hạ
nguồn
sinh lực của tăng già
An
cư kiết hạ là một thông lệ từ lâu của các đạo sĩ Ấn
Độ khi tăng đoàn Phật giáo hãy còn chưa xuất hiện. Thời
tiết Ấn Độ có vẻ khác hơn Việt Nam hay Trung Quốc cũng
như các quốc gia khác: Từ tháng một đến tháng tư là mùa
xuân, từ tháng chín đến tháng mười hai là mùa đông. Ấn
Độ không có mùa thu. Một năm chia làm ba mùa rõ rệt như
thế, nên các đạo sĩ qui định vào những tháng mưa gió nên
an trú một nơi nhất định để bảo tồn sức khoẻ và tăng
cường đạo lực. Giáo đoàn Phật giáo hợp thức hoá thông
lệ này bắt đầu từ Lục quần Tỳ kheo (sáu thầy tỳ kheo
chuyên gia khai duyên cho Phật chế giới). Suốt mấy tháng mùa
mưa, nhóm sáu thầy tỳ kheo này lang thang du hoá khắp nơi không
kể gì mưa gió, đạp dẫm lên hoa cỏ mùa màng mới đâm chồi
hay những loài côn trùng vừa sanh nở. Cư sĩ chê trách hàng
sa môn Thích tử thật quá đáng, các đạo sĩ khác vẫn có
những tháng sống cố định, ngay đến loài cầm thú vẫn
có mùa trú ẩn của nó, còn các vị hành đạo này thì luông
tuồng không biết nghỉ chân vào mùa nào cả. Lúc ấy, đức
Phật ở tại nước Xá Vệ, trong thành Cấp Cô Độc, biết
được sự việc xảy ra liền ban hành quyết định cấm túc
an cư cho toàn thể tăng đoàn trong các tháng đầu mùa mưa,
tức từ mồng một trăng tròn của tháng A-sa-đà đến hết
trăng tròn của tháng A-thấp-phược-đê-xà (Theo ngài Huyền
Trang là nhằm 16 tháng 5 của Trung Quốc, sau vì muốn lấy ngày
rằm tháng bảy Vu Lan làm ngày Tự tứ nên chọn ngày An cư
là 16 tháng 4). Phật giáo Việt Nam cũng tuân theo nguyên tắc
này nhưng thời gian có khác một chút. Nghĩa là thời tiết
Việt Nam tuy thể hiện rõ rệt chỉ có hai mùa nắng và mùa
mưa, nhưng vẫn qui định theo bốn mùa như Trung Quốc: xuân,
hạ, thu, đông. Như vậy thời điểm để tu sĩ Phật giáo
Việt Nam an cư là bắt đầu từ ngày rằm tháng 4 đến rằm
tháng 7 (mùa hạ), đó gọi là tiền an cư. Hậu an cư là dành
cho trường hợp đặc biệt, có duyên sự khẩn thiết thì
có thể bắt đầu an cư từ 17 - 4 cho đến 17 - 5, và kết
thúc dĩ nhiên cũng phải đủ 90 ngày như tiền an cư (cùng
làm lễ Tự tứ, nhưng phải ở lại cho đủ số ngày). Riêng
hệ phái Nguyên Thuỷ chọn thời điểm kiết hạ vào ngày
rằm tháng 6 cho đến ngày rằm tháng 9. Tuỳ theo quốc độ,
địa phương mà có những mùa an cư không hoàn toàn giống
nhau, ở Việt Nam, một vài nơi còn có thêm kiết đông bắt
đầu từ rằm tháng 9 đến rằm tháng 12 là dựa theo tinh thần
của Luật Bồ Tát.
Vì
sao lại phát sinnh thêm kiết đông thay vì chỉ có kiết hạ?
Có phải an cư là thời gian để tăng già tích luỹ nguốn
sinh lực hay không?
Hàng
xuất gia trong giáo đoàn Phật giáo bao giờ cũng tâm niệm
hai nhiệm vụ cần phải sớm thành tựu: thượng cầu Phật
đạo và hạ hóa chúng sanh. Song lộ trình tiến đến quả
vị Phật hay Thánh quả thật gian truân cách trở, không phải
là vấn đề một sớm một chiều hay một kiếp. Vì vậy việc
tự lợi là một nhu cầu cần thiết cho bất cứ một hành
giả nào còn vương mang pháp hữu lậu, chưa có phần dự vào
dòng Thánh. Nếu như thời gian dành cho việc đi lại bên ngoài
quá nhiều, mà căn bản phiền não vẫn còn sâu kín bên trong
thì kết quả hoàn toàn sai với tinh thần hóa độ của đức
Phật. Người bị trói tất nhiên không bao giờ cởi trói được
cho người khác. Người có thật nhiều hạnh phúc, vượt lên
trên những khổ đau triền phược mới có thể đưa người
ra khỏi dòng tục bến mê. Hóa độ thì xem như chia phần,
bớt đi. Mặc dù một ngọn đèn có thể thắp sáng hàng trăm
nghìn ngọn đèn khác. Song một khi ngọn đèn ra trước gió,
thì sự an nguy cũng giống như một người hành đạo chưa
liễu đạo mà phải đương đầu với ngũ dục trần lao. Thế
mới biết, an cư là thời gian quý báu để người tu hành
có điều kiện nhìn lại chính mình, soi thấu bệnh tật phiền
não hoặc mới huân tập hoặc lâu đời mà đoạn trừ, trị
liệu. Ngoài ra việc tránh ngộ sát côn trùng hay không ảnh
hưởng mùa màng của người thế tục cũng là một duyên cớ
để trưởng dưỡng lòng từ bi. Song lý do trước mới là
tinh thần chính yếu của việc cấm túc an cư.
Bộ
Luật Tư Trì Ký định nghĩa: Lập tâm một chỗ gọi là Kiết;
bộ Nghiệp Sớ định nghĩa: Thu thúc thân vào chỗ tịch tĩnh
gọi là An. Như vậy dù kiết hạ hay kiết đông an cư thì
mục đích chính vẫn là thúc liễm thân tâm, trau dồi giới
đức. Tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào không quan tâm đến việc
tu tập thiền định để bồi dưỡng trí tuệ thì thật không
xứng đáng là bậc mô phạm tỉnh thức. Sự khắc khe này
cũng chỉ vì đức Phật muốn bảo hộ sức sống của tăng-già
bằng việc triển khai năng lực tu tập của mỗi cá nhân.
Nếu ai trong hàng xuất gia đệ tử Phật không tôn kính vâng
giữ lời huấn thị của đức Phật, xem an cư là một điều
bó buộc, một phương tiện nhỏ nhặt thì quả thật người
ấy không những tự chối bỏ phần tự lợi mà gây ảnh hưởng
không tốt cho tăng đoàn. Cũng như bác nông phu mỗi năm phải
làm ruộng, nếu năm nào bỏ bê không chăm lo đến mùa màng
thì bác sẽ bị nghèo nàn đói thiếu. Hàng Bí Sô nếu không
có những ngày tháng cùng sinh hoạt cộng trú để sách tấn
lẫn nhau thì làm sao có điều kiện để tạo thành năng lực
hoà hợp và kiểm chứng giá trị thanh tịnh? Kết thúc khoá
an cư là Tự Tứ, một hình thức tối quan trọng để tổng
kết quá trình tu tập tiến triển hay lui sụt của từng cá
nhân qua ba tiêu chuẩn: thấy, nghe, nghi. Những ai vượt ra khỏi
phạm vi giới luật, buông lung theo ba nghiệp, hành động theo
bản năng cố hữu thì sẽ bị cử tội giữa đại chúng để
bổ khuyết sửa chữa.
Một
lần, sau mùa an cư các thầy tỳ kheo lần lượt về vấn an
đức Phật và trình bày công phu tu tập của mình. Đức Phật
hỏi:
- Vừa
qua các ông có được an lạc không?
- Thưa
an lạc lắm ạ!
- Thế
trong ba tháng ấy các ông tu tập pháp gì?
Các
thầy tỳ kheo vui vẻ trả lời:
- Bạch
Thế Tôn, chúng con thực hành pháp tịnh khẩu, tự mỗi người
giữ im lặng tuyệt đối.
- Đức
Phật quở trách:
- Các
ông thật vô trí, được sống chung sao không chịu trao đổi
hay nhắc nhở nhau tu tập mà lại thực hiện pháp câm như
thế, vậy an cư được lợi ích gì chứ? Các ông phải luôn
sinh hoạt trong niệm đoàn kết, trên dưới thuận hoà, cùng
thống nhất ý kiến, cùng bàn bạc trao đổi và học hỏi
lẫn nhau, lẽ nào không thấy được giá trị của thấy, nghe
và nghi làm tiêu chuẩn để thanh lọc mỗi người. Các ông
đã bỏ phí một mùa an cư. Các ông đã hành động phi pháp.
Năng
lực của đại chúng quả thật như biển (Đức chúng như
hải) sẽ nâng đỡ những con thuyền lành tốt, khôn khéo chiều
theo từng đợt sóng, và sẽ đào thải tất cả những con
thuyền hư thủng ra khỏi lòng đại dương. Tăng đoàn muốn
hòa hợp theo đúng bản chất của nó như nước với sữa
thì buộc mỗi cá nhân phải tự nỗ lực, trang nghiêm chính
mình. Ngày nay, những người trí thức ở phương Tây luôn
tranh thủ cho mình một khoảng thời gian một tháng hay nhiều
hơn trong năm để tu nghiệp, tức là bồi dưỡng thêm nghề
nghiệp. Người tu sĩ Phật giáo lấy trí tuệ làm sự nghiệp
lẽ nào không đầu tư vào công phu thiền định. Không có
thời gian để cùng nhau nhắc nhở giới luật. Tứ niệm xứ,
Tứ thánh chủng… Một mình một cõi du hóa lơ lỏng trong
nhân gian thì rất khó cho việc thành tựu tuệ giác, hóa độ
viên mãn.
Cũng
như những giáo hội khác, ngày nay ở Việt Nam không còn giống
như thời Phật ở Ấn Độ là hàng xuất gia không phải mỗi
người du hóa một phương, mang theo ba y một bình bát và ngủ
dưới gốc cây, nhưng lối sống theo từng tông phái, chùa
riêng, tổ đình riêng, thầy riêng đệ tử riêng thì cũng
xem như rời rạc, chưa đoàn kết hoà hợp. Vì lẽ chưa dung
hoà đó mà Kiết hạ an cư đã trở thành qui luật rất cần
thiết để làm phương thuốc hồi sinh, làm sống lại tình
Linh Sơn cốt nhục mà lắm lúc vì những nguyên do gì đó,
vì bệnh nghiệp cá biệt nào đó đã làm cho anh em cùng nhà
phải bút chiến, khẩu chiến phân tranh cao hạ, làm cho sư
tử phải trọng thương chỉ vì loài trùng ăn gặm trong thân
sư tử. Hơn nữa, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hôm nay nhắm
vào tinh thần thống nhất về tổ chức (thống nhất ý chí
và hành động) thì Kiết hạ an cư là một phương tiện thuận
lợi cho giáo hội xây dựng tăng đoàn đoàn kết hòa hợp
và thống nhất mọi mặt theo phương châm: “Đạo pháp - Dân
tộc - chủ nghĩa xã hội”.
Rõ
ràng, ba tháng an cư, cửu tuần tu học đích thực là nguồn
năng lực quí báu làm nóng lại và bền vững hơn tinh thần
thanh tịnh hòa hợp của tăng-già. Chúng ta sẽ dễ dàng nhìn
thấy sự hưng thịnh của Phật pháp khi chốn tòng lâm ngày
ngày giới luật nghiêm minh, đêm đêm toạ thiền niệm Phật,
trên dưới hoà hợp, tu tập trong niệm đoàn kết an hoà.
Mùa
An Cư - PL 2544
Thích
Chơn Thanh.