(Truyện Kể Các Vị Cao Tăng Trung Quốc)
Phó Ðại Sĩ, tên Hấp tự là Huyền Phong hiệu là Thiện Huệ, người Nghĩa Ô. Niên hiệu Kiến Vũ thứ tư (497) đời Tề, Ngài sanh ngày 8 tháng 5 ở làng Song Lâm, trong nhà Phó Tuyên Từ. Năm mười sáu tuổi lấy con gái họ Lưu tên Diệu Quang, sanh được hai con trai là Phổ Kiến, Phổ Thành. Năm 24 tuổi, theo dòng sông bắt cá đem đến ao Kê Ðình, dìm giỏ vào nước nói:
- Ði thì thả, ở thì bắt.
Người ta bảo là ngu. Một hôm có Tung Ðầu Ðà người Thiên Trúc đến thăm Ngài, bảo rằng:
- Xưa tôi với ông ở trước Phật Tỳ Bà Thi cùng phát thệ nguyện độ sanh. Nay ở cung Ðâu Suất vẫn còn y bát. Ngày nào sẽ trở lại?
Rồi dẫn đến suối nhìn bóng, thấy bảo cái tròn sáng. Ðại sĩ liền ngộ được nhân duyên đời trước cười to nói:
- Lò rèn còn nhiều sắt, thô. Cửa thầy thuốc đầy bệnh nhân, việc độ sanh gấp gáp, đâu rãnh mà nghĩ đến cái vui thú ở thiên cung.
Rồi Ngài bỏ đồ bắt cá, dẫn nhau về nhà, nhân đó Ngài hỏi đất để tu đạo. Tung Ðầu Ðà chỉ rừng Song Lâm núi Tùng nói:
- Nên ở nơi này!
Ngài bèn kết am tự xưng là “Bồ tát Thiện Huệ tương lai sẽ giải thoát, ở dưới cây Song Lâm”, ở đó cày cấy, trồng rau quả như người tầm thường. Khi thu hoạch lúa má, dưa trái, Ngài lấy giỏ đựng đem bán. Ngài cùng với vợ là Diệu Quang, ngày thì làm lụng, tối về hành đạo.
Ngài ở Sơn Lâm bảy năm, một hôm hành đạo xong, cảm được bảy Phật theo đến. Phật thích Ca đi trước, sau cùng là Duy Ma. Chỉ có đức Thích Ca mấy lần nhìn, bảo với Ngài:
- Ta bổ xứ cho ông đấy!
Lại có một hôm thấy ba vị Phật Thích Ca, Kim Túc, Ðịnh Quang phóng hào quang chiếu thân mình. Ngài tự bảo đắc định Thủ Lăng Nghiêm.
Vì thế đệ tử càng đông thêm. Niên iệu Trung Ðại Thông sanh năm thứ hai (530) Ngài sai đệ tử là Phó Vãng đến kinh đô dâng thư cho Lương Vũ Ðế rằng:
“Ðại sĩ Thiện Huệ, người tương lai giải thoát, ở dưới rừng cây Song Lâm tâu với Quốc vương:
Bồ tát cứu thế có ba điều thiện bậc thượng, trung, hạ phải nên nhận giữ:
1. Ðiều thiện bậc thượng: Lấy hư hoại làm gốc, chẳng vướng mắc làm tông, vô tướng làm nhân, Niết Bàn làm quả.
2. Ðiều thiện bậc trung: Lấy trị thân làm gốc, trị nước làm tông, được quả báo an lạc trên trời, trong loài người.
3. Ðiều thiện bậc hạ: Lấy việc bảo vệ nuôi nấng chúng sanh, thắng tàn bạo, bỏ giết hại, khiến dân chúng đều giữ lục trai.
Nay mộ lòng sùng pháp của Hoàng đế, muốn đến tranh luận nghị mà chưa được mãn nguyện, nên sai đệ tử đến để cáo bạch”.
Vua rất vui, sai Hà Xương viết chiếu đến, đón Ngài về triều. Vũ Ðế hỏi:
- Xưa nay ai là thầy của Ngài?
Ðáp:
- Theo không chỗ theo, đến không chỗ đến, thờ thầy cũng thế.
Lại hỏi:
- Sao không luận nghĩa?
Ðáp:
- Lời Bồ tát chẳng dài, chẳng ngắn, chẳng rộng, chẳng hẹp, chẳng phải hữu biên, chẳng phải vô biên, như như chính lý, còn nói gì nữa?
Niên hiệu Ðại Ðồng năm thứ hai (536), lại vào kinh đô. Vũ Ðế mời vào hỏi:
- Thế nào là chân đế?
Ðáp:
- Dứt mà chẳng diệt.
Vua nói:
- Dứt mà chẳng diệt tức là có sắc, có sắc nên trì độn. Như thế cư sĩ chưa khỏi được dòng tục.
Ngài đáp:
- Gặp tiền tài không cẩu thả để được, gặp khó không cẩu thả để tránh.
Vua nói:
- Cư sĩ rất biết lễ.
Ngài nói:
- Tất cả các pháp không có cũng không không, những sắc tượng trong đại thiên thế giới, tất cả đều không, trăm sông trôi chảy không ra khỏi biển. Vô lượng diệu pháp không ra khỏi chơn như. Như lai vì sao một mình vượt hẳn chín mươi sáu đường trong ba cõi? Xem tất cả chúng sinh như con đẻ. Thiên hạ không phải đạo thì Ngài chẳng an, không phải lễ thì Ngài chẳng vui?
Vua làm thinh. Ngày khác, Vũ Ðế thỉnh Ngài giảng kinh Kim Cang. Ðại sĩ vừa lên tòa, lấy thước đập xuống bàn một cái rồi bước xuống. Vua ngạc nhiên, Ðại sĩ hỏi:
- Bệ hạ hiểu không?
Ðáp:
- Không hiểu.
Ðại sĩ nói:
- Ðại sĩ giảng kinh xong rồi!
Một hôm, Ngài đang giảng kinh thì vua đến, mọi người đều đứng dậy. Ðại sĩ ngồi yên chẳng động. Họ bảo Ngài:
- Vua đến đây rồi, sao không đứng dậy?
Ðại sĩ nói:
- Ðất pháp nếu động, tất cả chẳng yên.
Ngài trở lại Song Lâm, viết bài minh “Tâm Vương”:
Quán
tâm không vương
Quán
tâm không vương
Kỳ
diệu khó lường.
Nguyên
diệu nan trắc.
Không
hình không tướng
Vô
hình vô tướng
Có
thần lực lớn
Hữu
đại thần lực
Hay
diệt ngàn tai
Năng
diệt thiên tai
Thành
tựu muôn đức
Thành tựu vạn đức
Thể
tánh tuy không
Thể
tánh tuy không
Hay
bày phép tắc
Năng thí pháp tắc
Xem
chẳng thấy hình
Quán
chi vô hình
Hô
thì có tiếng
Hô
chi hữu thanh
Làm
đại pháp tướng
Vi
đại pháp tướng
Tâm
giới truyền kinh
Tâm
giới truyền kinh
Vị
muối trong nước
Thủy trung cổ vị
Keo
xanh trong màu
Sắc
lý giao thanh
Quyết
định là có
Quyết định thị hữu
Chẳng
thấy được hình
Bất kiến kỳ hình
Tâm
vương cũng vậy
Tâm vương diệc nhĩ
Nằm
ở trong thân
Thân
nội cư đình
Ra
vào trên mặt
Diện
môn xuất nhập
Ứng
vật tùy hình
Ứng
vật tùy hình
Tự
tại vô ngại.
Tự
tại vô ngại
Việc
làm đều thành.
Sở
tác giai thành.
Rõ
gốc, biết tâm
Liễu
bổn thức tâm
Biết
tâm thấy Phật
Thức
tâm kiến Phật.
Tâm
này là Phật.
Thị
tâm thị Phật.
Phật
này là tâm
Thị
Phật thị tâm.
Niệm
niệm Phật tâm
Niệm niệm Phật tâm
Phật
tâm niệm Phật
Phật
tâm niệm Phật
Muốn
được sớm thành
Dục
đắc tảo thành
Răn
tâm tự luật
Giới
tâm tự luật
Tịnh
luật, tịnh tâm
Tịnh
luật tịnh tâm
Tâm
tức là Phật
Tâm
tức thị Phật
Trừ
tâm vương này
Trừ thử tâm vương
Không
có Phật khác
.Cách
vô biệt Phật.
Muốn
cầu thành Phật
Dục cầu thành Phật
Chớ
nhiễm vật gì
Mạc nhiễm nhất vật
Tâm
tánh tuy không,
Tâm
tánh tuy không,
Tham
sân thể thực
Tham sân thể thực.
Vào
pháp môn này
Nhập
thử pháp môn
Ngồi
ngay thành Phật.
Ðoan
tọa thành Phật.
Ðến
bờ kia rồi
Ðáo
bĩ ngạn dĩ
Ðược
Ba la mật
Ðắc
Ba la mật
Chân
sĩ mộ đạo
Mộ
đạo chân sĩ
Tự
xét tâm mình
Tự
quán tự tâm
Biết
Phật ở trong
Tri
Phật tại nội
Không
hướng ngoài tìm.
Bất
hướng ngoại tầm.
Tức
tâm tức Phật
Tức
tâm tức Phật.
Tức
Phật tức tâm
Tức
Phật tức tâm,
Tâm
sáng, biết Phật
Tâm
minh thức Phật
Rõ
ràng biết tâm
Liễu
liễu thức tâm.
Lìa
tâm không Phật
Ly
tâm phi Phật
Lìa
Phật không tâm
Ly
Phật phi tâm
Chẳng
Phật khó lường
Phi
Phật mạc trắc
Không
kham nhận nổi.
Vô
sở kham nhậm.
Chấp
không kẹt tịch
Chấp
không trệ tịch
Ở
đó trôi chìm
Ư
thử phiêu trầm
Chư
Phật Bồ tát
Chư
Phật Bồ tát
Chẳng
an tâm (như) vậy.
Phi
thử an tâm.
Ðại
sĩ sáng tâm
Minh
tâm đại sĩ
Ngộ
nguyên âm này
Ngộ
thử nguyên âm
Thân
tâm tánh diệu
Thân
tâm tánh diệu
Dùng
không sửa đổi
Dụng
vô canh cải
Thế
nên bậc trí
Thị
cố trí giả
Buông
tâm tự tại
Phóng
tâm tự tại
Chớ
bảo tâm vương
Mạc
ngôn tâm vương
Không,
không thể tánh
Không
vô thể tánh
Hay
khiến sắc thân
Năng
sử sắc thân
Làm
tà làm chánh
Tác
tà tác chánh
Chẳng
có, chẳng không
Phi
hữu phi vô,
Ẩn
hiện không định
Ẩn
hiện bất định
Tâm
tánh lìa không
Tâm tánh ly không
Thánh
phàm thành Thánh
Năng
phàm năng Thánh
Thế
nên khuyên nhau
Thị
cố tương khuyến
Khéo
nên cẩn thận
Hảo
tự phòng thận.
Sát
na tạo tác
Sát
na tạo tác
Lại
bị trôi chìm
Hoàn
phục phiêu trầm
Thanh
tịnh trâm trí
Thanh tịnh tâm trí
Như
thể vàng ròng
Như
thể hoàng kim.
Kho
pháp Bát Nhã
Bát
Nhã pháp tạng
Ðều
ở thân tâm
Tịnh
tại thân tâm
Pháp
báu vô vi
Vô
vi pháp bảo
Không
cạn không sâu.
Phi
thiển phi thâm.
Như
Phật Bồ tát
Như Phật Bồ tát
Rõ
bổn tâm này
Liễu thử bổn tâm
Người
ngộ có duyên
Hữu
duyên ngộ giả
Chẳng
có ba đời
Phi
khứ lai kim.
Lại có kệ rằng:
Ðêm đêm ôm Phật ngủ
Sáng sáng cùng thức dậy
Ðứng ngồi vẫn theo nhau
Nói nín chung ăn ở
Mảy may không cách biệt
Giống hệt hình với bóng
Muốn biết chỗ Phật đi
Chính ngay tiếng nói này.
(Dạ dạ bão Phật miên
Triêu triêu hoàn cộng khởi
Khởi tọa trấn tương tùy
Ngữ mặc đồng cư chỉ
Ti hào bất tương ly
Như thân ảnh tương tợ
Dục thức Phật khứ xứ
Kỳ giá ngữ thanh thị).
Lại nói:
Có vật trước trời đất
Không hình vốn tịch tiêu
Hay làm chủ muôn vật
Chẳng theo bốn mùa tàn.
(Hữu vật tiên thiên địa
Vô hình bổn tịch liêu
Năng vi vạn tượng chủ
Bất trục tứ thời điêu).
Ngài ở niên hiệu Ðại Ðồng nhà Lương năm thứ mười (544), thiết lập đại pháp hội, khắp vì chúng sanh, sám hối diệt mọi tội khổ, chóng được giải thoát.
Ngài lại cho mục lục kinh kinh Phật quá nhiều, người ta chẳng thể xem khắp, bèn dựng Luân tạng, lập nguyện rằng:
- Người lên tạng môn của ta, đời đời kiếp kiếp, không mất thân người, người phát tâm Bồ đề có thể đẩy Luân Tạng cùng người trì tụng kinh, công đức không khác.
Ngài ở Song Lâm làm Phật sự rộng lớn, thường có kệ:
Tay không nắm cán mai
Ði bộ lưng trâu ngồi
Trên cầu người cất bước
Cầu trôi nước chẳng trôi.
(Không thủ bả xừ đầu
Bộ hành kỵ thủy ngưu
Nhơn tùng kiều thượng quá
Kiều lưu thủy bất lưu).
Nhà Trần niên hiệu Thái Kiến năm đầu (569), có pháp sư Huệ Hòa, chẳng bệnh mà tịch. Tung Ðầu Ðà cũng ở chùa Linh Nham, Kha Sơn nhập diệt. Ðại sĩ thầm biết bảo Phổ Kiền, Phổ Thành rằng:
- Tung Công đang đợi ta ở cung trời Ðâu Suất, không thể ở lại nữa.
Khi ấy, bốn phía, cây vừa đơm hoa đẹp đẽ chợt khô héo. Ngày 24 tháng 4, Ngài dạy chúng rằng:
- Thân này là nơi mọi khổ nhóm họp, rất đáng chán ghét. Phải tu tam nghiệp, tịnh tu lục độ, nếu đọa địa ngục, thật khó ra được, thường nên sám hối.
Lại nói:
- Ta diệt rồi, không được dời giường ngủ, bảy ngày sẽ có thượng nhân Pháp Mãnh đem tượng và chuông đến trấn ở đây.
Ðệ tử hỏi:
- Sau khi quy tịch, thân thể nên làm sao?
Ngài bảo:
- Ðem lên đỉnh núi thiêu.
Hỏi:
- Nếu không được thì sao?
Ðáp:
- Không cần liệm vào quan tài, chỉ lấy gạch tường làm đàn tế, dời xác lên trên, bình phong màu đỏ che chung quanh, trên dựng tháp phù đồ, lầy tượng Di Lặc trấn vào.
Lại hỏi:
- Chư Phật diệt độ đều thuyết công đức, gốc gác của Thầy, chúng con có thể nghe được chăng?
Ðáp:
- Ta từ trời Ðệ Tứ Thiền đến, để độ các ông. Kế phụ giúp đức Thích Ca, và giúp Phổ Mẫn (Văn Thù), Huệ Tập (Quan Âm) Hà Xương (A Nan) cùng đến tán trợ, điều này trong Thích Ca Ðại Phẩm có nói: “Có Bồ tát từ trời Ðâu Suất đến, căn tánh mãnh lợi, chóng cùng Bát Nhã tương ưng” chính là thân ta đó.
Nói xong, ngồi kiết già mà thị tịch, thọ 73 tuổi. Ðến bảy ngày sau có thượng nhân Pháp Mãnh quả nhiên đem lụa dệt tượng Di Lặc và chuông chín lỗ đến trấn ở khám. Chốc lát không thấy nữa.
Nhà Tấn niên hiệu Thiên Phước năm thứ chín (944) *. Tiền Vương mở tháp, lấy mười sáu miếng linh cốt toàn màu vàng tía và đạo cụ hơn mười món, đến Phủ Thành – Long Sơn dựng chùa Long Hoa, đắp tượng đặt thờ. Truyền thuyết nói rằng Ngài là Di Lặc hóa thân.
* Tấn Cao Tổ niên hiệu Thiên Phước từ 936-942
Tấn Xuất Ðế niên hiệu Thiên Phước từ 942-944