- 1. Bombay, ngày 6 tháng 1 năm 1960
- 2. Eddington, Pennsylvania, ngày 12 tháng 6 năm 1936
- 3. Từ quyển: Những cuộc nói chuyện ở Châu Âu năm 1967, London, ngày 30 tháng 9 năm 1967
- 4. Seatle, ngày 16 tháng 7 năm 1950
- 5. Từ quyển: Những cuộc nói chuyện ở Châu âu năm 1967, Paris, ngày 30 tháng 4 năm 1967
- 6. Từ quyển: Tự do đầu tiên và cuối cùng, Chương 28
- 7. Từ quyển: Cuộc sống trước mặt, Chương 4
- 8. Từ quyển: Cuộc Sống Trước Mặt, Chương 7 với Những Người Trẻ
- 9. Từ quyển: Bình phẩm về cuộc sống Quyển một, Chương 18
- 10. Bombay, ngày 3 tháng 3 năm 1965
- 11. Bangalore, ngày 4 tháng 7 năm 1948
- 12. Bombay, ngày 8 tháng 2 năm 1948
- 13. Bombay, ngày 27 tháng 2 năm 1955
- 14. Bombay, ngày 24 tháng 12 năm 1958
- 15. Bombay, ngày 8 tháng 3 năm 1961
- 16. London, ngày 23 tháng 10 năm 1949
- 17. Madras, ngày 29 tháng 1 năm 1964
- 18. Madras, ngày 15 tháng 12 năm 1974
- 19. Từ quyển: Ghi Chép của Krishnamurti
- 20. New Delhi, ngày 31 tháng 10 năm 1956
- 21. Ojai, ngày 5 tháng 7 năm 1953
- 22. Ojai, ngày 21 tháng 8 năm 1955 - Nói chuyện
- 23. Ojai, ngày 21 tháng 8 năm 1955, Những câu hỏi
- 24. Saanen, ngày 2 tháng 8 năm 1964
- 25. Saanen, ngày 1 tháng 8 năm 1965
- 26. Từ quyển: Sự kết thúc của thời gian, ngày 2 tháng 4 năm 1980
- 27. Từ quyển: Sổ tay của Krishnamurti
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Tôi
muốn nói về, không chỉ giải thích bằng từ ngữ, mà còn
hiểu rõ sâu sắc, ý nghĩa của tôn giáo. Nhưng trước khi
chúng ta có thể thâm nhập sâu vào chủ đề này, chúng ta
sẽ phải hiểu rõ cái trí tôn giáo là gì, và trạng thái
của một cái trí mà thực sự tìm hiểu toàn vấn đề của
tôn giáo là gì.
Dường
như đối với tôi rất quan trọng phải hiểu rõ sự khác
nhau giữa cô lập và cô đơn. Hầu hết mọi hoạt động hàng
ngày của chúng ta đều tập trung quanh chính chúng ta; nó được
đặt nền tảng trên quan điểm đặc biệt của chúng ta, trên
những trải nghiệm và những cá tính đặc biệt của chúng
ta. Chúng ta suy nghĩ dựa vào gia đình của chúng ta, công việc
của chúng ta, điều gì chúng ta mong ước thành tựu, và cũng
dựa vào những sợ hãi, những hy vọng và những thất vọng
của chúng ta. Tất cả việc này rõ ràng đều được tập
trung vào chính chúng ta và nó tạo ra một trạng thái tự cô
lập, như chúng ta có thể thấy trong cuộc sống hàng ngày
của chúng ta. Chúng ta có những ham muốn bí mật riêng của
chúng ta, những theo đuổi và những tham vọng giấu giếm của
chúng ta, và chúng ta không bao giờ liên quan sâu thẳm với
bất kỳ ai, hoặc với những người vợ của chúng ta, những
người chồng của chúng ta, hoặc con cái của chúng ta. Cũng
vậy tự cô lập này là kết quả của sự chạy trốn khỏi
nhàm chán hàng ngày của chúng ta, khỏi những thất vọng và
những tẻ nhạt trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Nó
bị gây ra bởi sự tẩu thoát trong nhiều hình thức khác nhau
khỏi ý tưởng lạ thường của cô độc của chúng ta mà
ập vào chúng ta khi chúng ta đột nhiên cảm thấy không liên
quan với bất kỳ sự việc gì, khi mọi thứ đều ở thật
xa và không hiệp thông, không liên hệ gì với bất kỳ ai.
Tôi nghĩ hầu hết chúng ta, nếu chúng ta ý thức được qui
trình tồn tại riêng của chúng ta, đều đã cảm thấy cô
độc này rất sâu thẳm.
Bởi
vì cô độc này, từ ý thức cô lập này, chúng ta cố gắng
nhận dạng chính chúng ta với một cái gì đó to tát hơn cái
trí – nó có thể là chính thể, hay một lý tưởng, hay một
ý niệm của Thượng đế là gì. Nhận dạng với cái gì đó
to tát hơn hay bất tử này, cái gì đó bên ngoài lãnh vực
suy nghĩ riêng của chúng ta, thông thường được gọi là tôn
giáo; và nó dẫn đến niềm tin, giáo điều, lễ nghi, theo
đuổi những tách rời của những nhóm người ganh đua, mỗi
người đang tin tưởng trong những khía cạnh khác nhau của
cùng sự việc. Vì vậy điều gì chúng ta gọi là tôn giáo
lại tạo ra cô lập thêm nữa.
Vậy
thì người ta thấy rằng quả đất bị phân chia thành những
quốc gia, rất ganh đua, mỗi quốc gia với chính thể cai trị
và những rào chắn kinh tế của nó. Mặc dù tất cả chúng
ta đều là những con người, chúng ta đã dựng lên những
bức tường giữa chúng ta và những người hàng xóm của chúng
ta qua chủ nghĩa quốc gia, qua chủng tộc, giai cấp, và phân
hạng, mà lại nữa nuôi dưỡng sự cô lập, sự cô độc.
Bây
giờ một cái trí bị trói buộc trong cô độc, trong trạng
thái cô lập này, không bao giờ có thể hiểu rõ tôn giáo
là gì. Nó có thể tin tưởng, nó có thể có những lý thuyết,
những khái niệm, những công thức nào đó, nó có thể nhận
dạng chính nó với cái đó mà nó gọi là Thượng đế, nhưng
tôn gáo, dường như đối với tôi, không liên quan đến bất
kỳ niềm tin, đến bất kỳ vị giáo sĩ, đến bất kỳ nhà
thờ, hay những quyển sách tạm gọi là thiêng liêng. Trạng
thái của cái trí tôn giáo có thể được hiểu rõ chỉ khi
nào chúng ta bắt đầu hiểu rõ vẻ đẹp là gì, và hiểu
rõ vẻ đẹp phải được tiếp cận qua cô đơn trọn vẹn.
Chỉ khi nào cái trí hoàn toàn cô đơn, nó có thể biết vẻ
đẹp là gì, và không phải trong bất kỳ trạng thái nào khác.
Chắc
chắn cô đơn không là cô lập, và nó không là trạng thái độc nhất. Độc nhất chỉ là một ngoại lệ trong một cách
nào đó, trái lại cô đơn trọn vẹn cần nhạy cảm, thông
minh, hiểu rõ lạ thường. Cô đơn trọn vẹn hàm ý rằng
cái trí được tự do khỏi mọi loại ảnh hưởng và vì vậy
không bị vấy bẩn bởi xã hội. Và nó phải cô đơn để
hiểu rõ tôn giáo là gì – mà là tìm ra cho chính chúng ta
liệu có cái gì đó bất tử, vượt khỏi thời gian.
Như
nó là hiện nay, cái trí là kết quả của nhiều ngàn năm
bị ảnh hưởng – sinh học, xã hội, môi trường, khí hậu,
nuôi dưỡng và vân vân. Điều này rất rõ ràng. Bạn bị
ảnh hưởng bởi thực phẩm bạn ăn, bởi báo chí bạn đọc,
bởi người vợ hay người chồng của bạn, bởi người hàng
xóm của bạn, bởi nhà chính trị, bởi truyền thanh và truyền
hình, và hàng ngàn sự việc khác. Bạn liên tục đang bị
ảnh hưởng bởi cái gì được trút vào cái trí tầng ý thức
bên ngoài cũng như bên trong từ nhiều phương hướng khác
nhau. Liệu không thể tỉnh thức được nhiều ảnh hưởng
này để cho người ta không còn bị trói buộc trong bất kỳ
ảnh hưởng nào của chúng và duy trì hoàn toàn không vấy
bẩn bởi chúng hay sao? Nếu không cái trí chỉ trở thành một
dụng cụ của môi trường sống của nó. Nó có lẽ tạo ra
một hình ảnh mà nó suy nghĩ Thượng đế, hay Sự Thật Vĩnh
Hằng là gì, và tin tưởng trong đó, nhưng điều đó vẫn
còn bị định hình bởi những đòi hỏi, những căng thẳng,
những mê tín, và những áp lực thuộc môi trường sống,
và niềm tin của nó không là trạng thái của một cái trí
tôn giáo gì cả.
Là
một người Thiên chúa giáo bạn được nuôi dưỡng trong một
nhà thờ được xây dựng bởi con người qua một thời kỳ
hai ngàn năm, cùng những vị linh mục, những giáo điều, những
lễ nghi của nó. Trong thời niên thiếu bạn được xức dầu
thánh, và khi bạn lớn lên bạn được dạy bảo phải tin
tưởng cái gì; bạn trải qua toàn tiến trình của bị quy
định, bị tẩy não. Áp lực của tôn giáo truyền bá này
rõ ràng là rất mạnh mẽ, đặc biệt bởi vì nó được tổ
chức tốt và có thể áp đặt sự ảnh hưởng thuộc tâm
lý qua giáo dục, qua thờ phụng những hình ảnh, qua sợ hãi,
có thể quy định cái trí trong hàng ngàn cách khác nhau. Khắp
phương Đông những con người cũng bị quy định nặng nề
bởi những niềm tin của họ, những tín điều của họ, những
mê tín của họ, và bởi một truyền thống cổ lỗ đến
mãi tận mười ngàn năm hay nhiều hơn nữa.
Bây
giờ nếu cái trí không có tự do, nó không thể tìm ra điều
gì là sự thật, và có tự do là được tự do khỏi ảnh
hưởng. Bạn phải được tự do khỏi ảnh hưởng của quốc
tịch của bạn và khỏi ảnh hưởng của nhà thờ của bạn,
cùng những niềm tin và những giáo điều của nó, và bạn
cũng phải được tự do khỏi tham lam, ganh tị, sợ hãi, đau
khổ, tham vọng, ganh đua, lo âu. Nếu cái trí không được
tự do khỏi tất cả những sự việc này, những áp lực khác
nhau từ bên ngoài và bên trong của chính nó sẽ tạo ra một
trạng thái mâu thuẫn, loạn thần kinh, và một cái trí như
thế không thể khám phá điều gì là sự thật, hay liệu có
cái gì đó vượt khỏi thời gian.
Vì
vậy người ta thấy rằng cái trí rất cần thiết phải được
tự do khỏi mọi ảnh hưởng. Một sự việc như thế có thể
xảy ra được không? Nếu nó không xảy ra được, vậy thì
không thể có sự khám phá về cái gì là bất tử, cái không
thể gọi tên được, cái tối thượng. Muốn tìm ra cho chính
mình liệu có thể được hay không, người ta phải tỉnh thức
được nhiều ảnh hưởng này, không chỉ ngồi ở đây, nhưng
cũng trong cuộc sống hàng ngày của người ta. Người ta phải
quan sát cách chúng đang vấy bẩn, đang định hình, đang quy
định cái trí như thế nào. Chắc chắn người ta không thể
luôn luôn tỉnh thức được nhiều ảnh hưởng khác nhau đang
trút vào cái trí, nhưng người ta có thể thấy sự quan trọng
– và tôi nghĩ đây là dòng chảy của vấn đề – của
được tự do khỏi mọi ảnh hưởng. Ngay khi người ta hiểu
rõ được sự cần thiết của việc đó, vậy thì tầng ý
thức bên trong tỉnh thức được ảnh hưởng mặc dù tầng
ý thức bên ngoài có lẽ thường không tỉnh thức.
Tôi
đang trình bày rõ ràng chứ? Điều gì tôi đang cố gắng vạch
ra là: có những ảnh hưởng nhỏ nhiệm lạ kỳ mà đang định
hình cái trí của bạn, và một cái trí bị định hình bởi
những ảnh hưởng mà luôn luôn trong lãnh vực của thời gian,
không thể khám phá cái bất tử, hay liệu có một sự việc
như bất tử. Vì vậy lúc này câu hỏi là: nếu cái trí tầng
ý thức bên ngoài không thể tỉnh thức được nhiều ảnh
hưởng, nó phải làm gì đây? Nếu bạn đặt câu hỏi này
cho chính bạn rất nghiêm túc và khẩn thiết để cho nó đòi
hỏi chú ý tổng thể của bạn, bạn sẽ thấy rằng phần
ý thức bên trong của bạn hoàn toàn không bị bận rộn khi
những tầng bên ngoài của cái trí đang vận hành, đảm đương
trách nhiệm và quan sát mọi ảnh hưởng đang len vào trong.
Tôi
nghĩ đây là điều rất quan trọng phải hiểu rõ, bởi vì
nếu bạn chỉ kháng cự, hay tự phòng vệ để chống lại
bị ảnh hưởng, kháng cự đó, mà là một phản ứng, tạo
ra tình trạng bị quy định thêm nữa của cái trí. Hiểu rõ
toàn qui trình của ảnh hưởng phải không nỗ lực; nó phải
có chất lượng của trực nhận ngay tức khắc. Nó giống
như thế này: nếu bạn thực sự thấy cho chính bạn sự quan
trọng lạ thường của không bị ảnh hưởng, vậy thì một
phần nào đó của cái trí của bạn đảm đương vấn đề
“thấy” đó bất kỳ khi nào phần ý thức bên ngoài của
bạn bị bận rộn bởi những sự việc khác, và phần ý thức
bên trong đó của cái trí rất tỉnh táo, năng động, cảnh
giác. Vì vậy điều gì cốt lõi là thấy ngay tức khắc sự
quan trọng lạ thường của không bị ảnh hưởng bởi bất
kỳ những hoàn cảnh hay bởi bất kỳ con người nào. Đó
là vấn đề thực sự, không phải làm thế nào để kháng
cự sự ảnh hưởng, hay làm việc gì trong trường hợp bạn
bị ảnh hưởng. Ngay khi bạn nắm bắt được yếu tố cốt
lõi này, vậy thì bạn sẽ phát giác có một phần của bộ
não luôn luôn tỉnh táo và cảnh giác, luôn luôn sẵn sàng
lọc sạch chính nó khỏi mọi ảnh hưởng, dù tinh tế đến
chừng nào. Từ sự tự do khỏi mọi ảnh hưởng này có cô
đơn, mà hoàn toàn khác hẳn cô lập. Và phải có cô đơn,
bởi vì vẻ đẹp vượt khỏi lãnh vực của thời gian, và
chỉ cái trí hoàn toàn cô đơn mới có thể biết được vẻ
đẹp là gì.
Với
hầu hết chúng ta, vẻ đẹp là một vấn đề của cân đối,
hình thể, kích cỡ, đường nét, màu sắc. Chúng ta nhìn thấy
một cao ốc, một cái cây, một hòn núi, một con sông, và
chúng ta nói rằng nó đẹp; nhưng vẫn còn có người đứng
ngoài, người trải nghiệm đang nhìn ngắm những sự việc
này, và vì vậy cái gì chúng ta gọi là vẻ đẹp vẫn còn
trong lãnh vực của thời gian. Nhưng tôi thấy rằng vẻ đẹp
vượt khỏi thời gian và muốn biết vẻ đẹp phải có sự
kết thúc của người trải nghiệm. Người trải nghiệm chỉ
là một tích lũy của sự trải nghiệm mà từ đó nhận xét,
đánh giá, suy nghĩ. Khi cái trí nhìn một bức ảnh, hay lắng
nghe âm nhạc, hay quan sát dòng chảy xiết của một con sông,
thông thường nó nhìn, lắng nghe, quan sát từ nền tảng quá
khứ của trải nghiệm được tích lũy đó; nó đang nhìn từ
quá khứ, từ lãnh vực của thời gian, và đối với tôi việc
đó không là biết vẻ đẹp. Muốn biết vẻ đẹp, mà là
tìm ra cái gì là bất tử, chỉ có thể được khi cái trí
hoàn toàn cô đơn. Và việc đó không liên quan đến điều
gì những vị giáo sĩ nói, đến điều gì những tổ chức
tôn giáo nói. Cái trí phải hoàn toàn không bị ảnh hưởng,
không bị vấy bẩn bởi xã hội, bởi cấu trúc của tham lam,
ganh tị, lo âu, sợ hãi. Nó phải hoàn toàn được tự do khỏi
tất cả những việc đó. Từ tự do này cô đơn đến, và
chỉ trong cô đơn cái trí mới có thể biết cái vượt khỏi
lãnh vực của thời gian.
Vẻ
đẹp và vĩnh cửu không thể bị tách rời. Bạn có lẽ vẽ,
bạn có lẽ viết, bạn có lẽ quan sát thiên nhiên, nhưng nếu
có hoạt động của cái tôi trong bất kỳ hình thức nào,
bất kỳ chuyển động tự cho mình là trung tâm nào của tư
tưởng, vậy thì cái gì bạn trực nhận không còn là vẻ
đẹp, bởi vì nó vẫn còn trong lãnh vực của thời gian. Và
nếu bạn không hiểu rõ vẻ đẹp, bạn không thể tìm ra cái
gì là bất tử, bởi vì hai sự việc này theo cùng nhau. Muốn
tìm ra cái gì là vĩnh hằng, bất tử, cái trí của bạn phải
được tự do khỏi thời gian – thời gian là truyền thống,
hiểu biết và trải nghiệm được tích lũy của quá khứ.
Nó không là vấn đề của điều gì bạn tin tưởng hay không
tin tưởng; điều đó không chín chắn, hoàn toàn trẻ con,
và nó tuyệt đối không liên quan gì đến vật chất cả.
Nhưng cái trí nghiêm túc, thực sự muốn tìm ta, sẽ xóa sạch
toàn bộ hoạt động tự cho mình là trung tâm của cô lập
và vì vậy sẽ bắt gặp một trạng thái trong đó nó hoàn
toàn cô đơn. Chỉ trong trạng thái hoàn toàn cô đơn đó mới
có thể có hiểu rõ về vẻ đẹp, về bất tử.
Bạn
biết không, những từ ngữ là những sự việc nguy hiểm bởi
vì chúng là những biểu tượng, và những biểu tượng không
là sự thật. Chúng chuyển tải một ý nghĩa, một khái niệm,
nhưng từ ngữ không là sự việc. Vì vậy khi tôi đang nói
về bất tử, bạn phải phát giác liệu bạn chỉ đang bị
ảnh hưởng bởi những từ ngữ của tôi hay bị trói buộc
trong một niềm tin, điều đó sẽ quá trẻ con.
Bây
giờ muốn tìm ra liệu có một sự việc như bất tử, người
ta phải hiểu rõ thời gian là gì. Thời gian là một sự việc
lạ lùng nhất. Tôi không đang nói về thời gian tuần tự,
thời gian bởi đồng hồ, mà vừa thực tế lẫn cần thiết.
Tôi đang nói về thời gian như sự tiếp tục tâm lý. Liệu
có thể sống không có sự tiếp tục đó hay không? Chắc chắn
cái gì cho sự tiếp tục là tư tưởng. Nếu người ta suy
nghĩ về một điều gì đó liên tục, nó có một tiếp tục.
Nếu người ta nhìn bức ảnh của người vợ mỗi ngày, người
ta cho nó một tiếp tục. Liệu có thể sống trong thế giới
này mà không cho sự tiếp tục vào hành động, để cho người
ta đến với mỗi hành động mới mẻ lại. Đó là, liệu
tôi có thể chết đi mỗi hành động suốt ngày, để cho cái
trí không bao giờ bị vấy bẩn bởi quá khứ, nhưng luôn luôn
mới mẻ, trong sáng, hồn nhiên? Tôi nói rằng một sự việc
như thế có thể được, rằng người ta có thể sống trong
lối này. Nhưng điều đó không có nghĩa nó là thực sự cho
bạn. Bạn phải tìm ra cho chính bạn.
Vì
vậy người ta bắt đầu thấy rằng cái trí phải hoàn toàn
cô đơn, nhưng không bị cô lập. Trong trạng thái hoàn toàn
cô đơn này kia kìa một ý thức của vẻ đẹp lạ thường,
của một cái gì đó không bị tạo ra bởi cái trí hiện diện.
Nó không liên quan gì đến đặt những nốt nhạc vào cùng
nhau, hay dùng một vài màu sơn để vẽ một bức tranh, nhưng
bởi vì nó cô đơn cái trí trong vẻ đẹp, và thế là nó
hoàn toàn nhạy cảm, nó là thông minh. Thông minh của nó không
là thông minh của sự ma mãnh, hay hiểu biết, nó cũng không
là khả năng để làm việc gì đó. Cái trí thông minh trong
ý nghĩa rằng nó không đang bị thống trị, không đang bị
ảnh hưởng và không bị sợ hãi. Nhưng muốn ở trong trạng
thái đó cái trí phải có thể tự làm mới mẻ lại chính
nó mỗi ngày, mà là chết đi hàng ngày với quá khứ, với
mọi thứ nó đã biết.
Như
tôi đã nói, từ ngữ, biểu tượng, không là sự thật. Từ
ngữ cái cây không là cái cây, và vì vậy người ta phải
rất tỉnh táo không bị trói buộc trong những từ ngữ. Khi
cái trí được tự do khỏi từ ngữ, biểu tượng, nó trở
nên nhạy cảm lạ thường, và vì vậy nó trong một trạng
thái tìm được.
Rốt
cuộc, con người đã tìm kiếm sự việc này lâu lắm rồi,
từ thời cổ xưa đến bây giờ. Anh ấy muốn tìm ra cái gì
đó không phải do con người tạo tác. Mặc dù tôn giáo có
tổ chức không có ý nghĩa gì cho bất kỳ con người thông
minh nào, dẫu vậy những tôn giáo có tổ chức luôn luôn đã
nói rằng có cái gì đó vượt khỏi. Con người đã luôn luôn
tìm kiếm cái gì đó, bởi vì anh ấy luôn luôn trong sầu muộn,
trong đau khổ, trong hoang mang, trong thất vọng. Vì luôn luôn
ở trong một trạng thái thay đổi mau lẹ, anh ấy muốn tìm
một cái gì đó tồn tại mãi mãi, một cái gì đó mà sẽ
kéo dài, vĩnh cửu, mà có một tiếp tục, và vì vậy tìm
kiếm của anh ấy luôn luôn ở trong lãnh vực của thời gian.
Nhưng như người ta có thể quan sát không có gì tồn tại
mãi mãi cả. Những liên hệ của chúng ta, những công việc
của chúng ta, mọi thứ đều không vĩnh cửu. Bởi vì sự
sợ hãi khủng khiếp của chúng ta về không vĩnh cửu này,
chúng ta luôn luôn đang tìm kiếm một cái gì đó tồn tại
mãi mãi mà chúng ta gọi là bất tử, vĩnh hằng, hay bất kỳ
từ ngữ gì bạn muốn. Nhưng tìm kiếm vĩnh cửu, bất tử,
vĩnh hằng này chỉ là một phản ứng, và vì vậy nó không
có giá trị. Chỉ khi nào cái trí được tự do khỏi sự ham
muốn được vĩnh cửu này nó mới có thể khởi sự tìm ra
liệu có một sự việc như vĩnh cửu, cái gì đó vượt khỏi
không gian, vượt khỏi thời gian, vượt khỏi người suy nghĩ
và sự việc mà anh ấy đang suy nghĩ, đang tìm kiếm hay không?
Muốn quan sát và hiểu rõ tất cả việc này đòi hỏi chú
ý tổng thể, và chất lượng mềm dẻo của kỷ luật có
từ chú ý đó. Trong chú ý như thế không có xao lãng, không
có căng thẳng, không có chuyển động trong bất kỳ phương
hướng đặc biệt nào, bởi vì mọi chuyển động như thế,
mọi động cơ như thế, là kết quả của ảnh hưởng, hoặc
của quá khứ hoặc của hiện tại. Trong trạng thái chú ý
không nỗ lực đó kia kìa một ý thức lạ thường của tự
do hiện diện, và chỉ đến lúc đó, bởi vì hoàn toàn trống
không, yên lặng, tĩnh lặng, cái trí có khả năng khám phá
cái vĩnh hằng.
Có
lẽ bạn muốn đặt những câu hỏi về điều gì đã được
nói.
Người hỏi: Làm thế nào người ta được tự do khỏi sự ham muốn được vĩnh cửu?
K: Từ ngữ làm thế nào ngụ ý một phương pháp, phải vậy không? Nếu bạn là một người xây dựng và tôi hỏi bạn làm thế nào để xây dựng một ngôi nhà, bạn có thể bảo tôi phải làm gì, bởi vì có một phương pháp, một hệ thống, một cách để bắt đầu nó. Nhưng sự tuân theo một phương pháp hay một hệ thống đã quy định cái trí rồi, vì vậy làm ơn hãy thấy sự khó khăn trong sự sử dụng từ ngữ làm thế nào đó.Vậy thì chúng ta cũng phải hiểu rõ ham muốn … Ham muốn là gì? Có đang thấy hay trực nhận, sau đó tiếp xúc hay sờ chạm, sau đó cảm giác, và cuối cùng nảy sinh sự việc mà chúng ta gọi là ham muốn. Chắc chắn đây là điều gì xảy ra. Làm ơn hãy theo sát nó. Có đang thấy, chúng ta hãy ví dụ, về một chiếc xe đẹp. Từ chính động thái đó, thậm chí không cần sờ chạm chiếc xe, có cảm giác, mà tạo ra ham muốn lái nó, sở hữu nó. Chúng ta không quan tâm làm cách nào để kháng cự hay được tự do khỏi ham muốn, bởi vì con người mà đã kháng cự và nghĩ rằng anh ấy được tự do khỏi ham muốn thực sự bị tê liệt, hết sinh khí rồi. Điều gì quan trọng là hiểu rõ toàn qui trình của ham muốn, mà là biết được cả sự quan trọng của nó lẫn sự không quan trọng tổng thể của nó. Người ta phải tìm ra, không phải làm thế nào kết thúc ham muốn, nhưng nó là gì mà trao sự tiếp tục cho ham muốn.
Bây giờ điều gì trao sự tiếp tục cho ham muốn? Nó là tư tưởng, phải không? Trước tiên có đang thấy chiếc xe, sau đó cảm giác, mà được theo sau bởi ham muốn. Và nếu tư tưởng không chen vào và trao sự tiếp tục cho ham muốn bằng cách nói rằng, “Tôi phải có chiếc xe hơi đó, làm thế nào tôi sẽ có được nó? vậy thì ham muốn kết thúc. Bạn theo kịp không? Tôi không đang khẳng định rằng nên có tự do khỏi ham muốn; hay ngược lại. Nhưng bạn phải hiểu rõ toàn cấu trúc của ham muốn, và rồi bạn sẽ thấy rằng không còn một tiếp tục của ham muốn, nhưng một cái gì khác trọn vẹn cùng nhau.
Vì vậy điều quan trọng không là ham muốn, nhưng sự kiện rằng chúng ta trao sự tiếp tục cho nó. Ví dụ, chúng ta trao một tiếp tục cho tình dục qua tư tưởng, qua những hình ảnh, qua những bức tranh, qua cảm giác, qua hồi tưởng; chúng ta tiếp tục ký ức đó bằng cách suy nghĩ về nó, và tất cả việc này trao sự tiếp tục cho dục tình, cho sự quan trọng của những giác quan. Không phải rằng những giác quan không quan trọng, chúng có. Nhưng chúng ta trao một tiếp tục cho sự vui thú của những giác quan đến độ nó trở thành quá quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Vì vậy điều gì cần quan tâm không phải là tự do khỏi ham muốn, nhưng hiểu rõ cấu trúc của ham muốn và làm thế nào tư tưởng trao sự tiếp tục cho nó – và đó là tất cả. Thế là cái trí được tự do, và bạn không phải tìm kiếm tự do khỏi ham muốn. Khoảnh khắc bạn tìm kiếm tự do khỏi ham muốn, bạn bị trói buộc trong xung đột. Mỗi lần bạn thấy một chiếc xe hơi, một người phụ nữ, một ngôi nhà, hay bất kỳ điều gì cuốn hút bạn, tư tưởng len vào và trao sự tiếp tục cho ham muốn, và rồi tất cả việc đó trở thành một vấn đề vô tận.
Điều gì quan trọng là sống một cuộc sống không nỗ lực, không một vấn đề. Bạn có thể sống không một vấn đề nếu bạn hiểu rõ bản chất của nỗ lực và thấy rất rõ ràng toàn cấu trúc của ham muốn. Hầu hết chúng ta đều có hàng ngàn vấn đề, và muốn được tự do khỏi những vấn đề chúng ta phải kết thúc mỗi vấn đề ngay tức khắc khi nó nảy sinh. Cái trí cần thiết phải không có vấn đề gì cả, và vì vậy sống một cuộc sống không nỗ lực. Chắc chắn một cái trí như thế là một cái trí tôn giáo thực sự, bởi vì nó đã hiểu rõ đau khổ và kết thúc đau khổ. Nó không còn sợ hãi, và vì vậy là một ngọn đèn cho chính nó.