Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 7 – Người Quan sát và Cái gì là

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9472)
Đối thoại 7 – Người Quan sát và Cái gì là

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 7

NGƯỜI QUAN SÁT VÀ CÁI GÌ LÀ

New Delhi, ngày 25 tháng 12 năm 1970

N

gười hỏi P: Vấn đề của sự phân hai và sự kết thúc của nó không thể được hiểu rõ nếu chúng ta không thâm nhập bản chất của người suy nghĩsuy nghĩ. Liệu chúng ta có thể bàn luận điều này?

Krishnamurti: Làm thế nào những người suy nghĩ của Ấn giáo, những triết gia thuộc trường phái Advaita giải quyết vấn đề này?

P: Trường phái Yoga-sutras của Patanjali công nhận một trạng thái giải thoát có những chỗ dựa, và một trạng thái của giải thoát không có những chỗ dựa. Trong một trạng thái, người suy nghĩ là chỗ dựa; nó là một trạng thái nơi người suy nghĩ đã không kết thúc. Trong trạng thái kia, có một trạng thái nơi mọi thứ gồm cả người suy nghĩ đã kết thúc.

 Những người Phật giáo nói về kshana vada, thời gian như tích tắc, tổng thể và trọn vẹn trong chính nó nơi người suy nghĩ không có sự tiếp tục. Những triết gia Advaita nói về sự kết thúc của phân hai và sự đạt được không-phân hai. Họ trải qua một qui trình phân hai để đạt được trạng thái không-phân hai này. Sankara tiếp cận trạng thái không-phân hai này qua sự phủ nhận (neti, neti). Nagarjuna, sự phủ nhận của người triết lý Phật giáo là tuyệt đối; nếu bạn nói có Thượng đế, ông ta phủ nhận nó; nếu bạn nói không có Thượng đế, ông ta phủ nhận nó. Mọi phát biểu đều bị phủ nhận.

B: Buddha nói cái gì tồn tại là ‘Sự cô đơn của Sự thật’. Bạn là kết quả của những suy nghĩ của bạn.

P: Tất cả họ đều nói về không-phân hai – Buddha, Sankara, Nagarjuna. Nhưng không-phân hai đã trở thành một ý tưởng. Nó đã không tác động vào ngay cấu trúc của bộ não. Ở Ấn độ qua hàng thế kỷ sự tiếp cận phủ nhận đã được bàn luận, nhưng nó đã không ảnh hưởng cái trí của con người. Những tế bào não vẫn duy trì sự phân hai; chúng vận hành trong thời gian và bị trói buộc trong thời gian. Mặc dù sự phủ nhận và sự không-phân hai đã được thừa nhận nhưng không có manh mối để hiểu rõ những trạng thái này. Tại sao không-phân hai đã không gây ảnh hưởng cái trí của con người? Chúng ta có thể thâm nhập vào nó để thấy liệu chúng ta có thể khám phá cái đó mà sẽ nẩy mầm trạng thái không-phân hai?

B: Tất cả những khai triển khác – thuộc khoa học, công nghệ – đã gây ảnh hưởng những cái trí của con người. Con người đã khám phá trạng thái không-phân hai nhưng nó đã không gây ảnh hưởng cái trí của anh ấy cũng như sống của anh ấy.

 

S: Nếu mỗi trải nghiệm lưu lại một dấu vết trên những tế bào não, ảnh hưởng của trạng thái không-phân hai, của trạng thái một là gì? Tại sao một thay đổi không đang xảy ra trong liên hệ giữa người suy nghĩ và suy nghĩ?

P: Liệu hệ thống máy móc mà ghi lại những hiểu biết thuộc công nghệ, là cùng hệ thống máy móc mà ‘thấy, nhận biết’?

Krishnamurti: Tế bào công nghệ, tế bào ghi lại và tế bào nhận biết

P: Và dường như chúng hình thành ‘cái tôi’.

Krishnamurti: Mảnh công nghệ và mảnh ghi lại – hai mảnh này tạo thành cái tôi. Không phải mảnh nhận biết.

P: Tôi cũng đang bao gồm ‘nhận biết’. Mảnh ghi lại liên quan cả hai – mảnh công nghệ và sự nhận biết.

Krishnamurti: Nó có lẽ là một giải thích bằng từ ngữ.

P: Dường như tâm điểm của con người không bao giờ bị ảnh hưởng. Sự phân hai cốt lõi cơ bản giữa người suy nghĩsuy nghĩ cứ tiếp tục.

Krishnamurti: Bạn nghĩ tại cơ bản có sự phân hai hay chỉ có ‘cái gì là’, sự kiện?

P: Thưa anh, khi anh đưa ra một câu hỏi như thế, cái trí bất động và người ta nói ‘vâng, nó là như thế’. Sau đó sự nghi ngờ bắt đầu – liệu tôi không tách khỏi S, khỏi B? Mặc dù cái trí nói ‘vâng’, nó cũng thắc mắc một tích tắc sau đó. Khoảnh khắc anh đặt ra câu hỏi, cái trí của tôi trở nên bặt tăm.

Krishnamurti: Tại sao không ở đó?

P: Sự nghi ngờ nảy sinh.

Krishnamurti: Tại sao? Liệu nó là thói quen, truyền thống, chính bản chất của sự vận hành của cái tôi, tình trạng bị quy định? Tất cả điều đó có lẽ do bởi sự áp đặt của văn hóa để sinh tồn, để vận hànhvân vân. Tại sao mang nó vào khi chúng ta đang nhìn sự kiện – liệu có sự phân hai cơ bản?

 

P: Anh nói, nó có lẽ là một hành động phản xạ của những tế bào não?

Krishnamurti: Chúng ta là kết quả của môi trường sống của chúng ta, của xã hội của chúng ta. Chúng ta là kết quả của tất cả những phản ứng hổ tương của chúng ta. Đó cũng là một sự kiện. Tôi đang tự hỏi liệu có một sự phân hai cơ bản tại tâm điểm, hay sự phân hai nảy sinh khi tôi chuyển động khỏi ‘cái gì là’? Khi tôi không chuyển động khỏi chất lượng không-phân hai cơ bản của cái trí, người suy nghĩ hiện diện ở đó, liệu anh ấy có một phân hai? Anh ấy suy nghĩ. Liệu người suy nghĩ tạo tác một phân hai khi anh ấy trọn vẹn ở cùng ‘cái gì là’?

 Tôi không bao giờ suy nghĩ khi tôi nhìn một cái cây. Khi tôi nhìn bạn, không có sự phân chia như ‘tôi’ và ‘bạn’. Những từ ngữ được sử dụng chỉ vì những mục đích hiệp thông và ngôn ngữ. Trong chừng mực nào đó ‘cái tôi’ và ‘cái bạn’ không bị bám rễ trong tôi. Vì vậy, người suy nghĩ nảy sinh sự tách khỏi suy nghĩ ở đâu? Cái trí vẫn còn trong ‘cái gì là’. Nó ở lại cùng đau khổ. Không có suy nghĩ của không-đau khổ. Không có ý thức của đau khổ. Đó là ‘cái gì là’. Không có cảm giác của mong muốn thoát khỏi nó. Sự phân hai nảy sinh ở đâu? Sự phân hai nảy sinh khi cái trí nói, ‘Tôi phải loại bỏ sự đau khổ. Tôi đã biết những trạng thái không-đau khổ và tôi muốn trong một trạng thái không-đau khổ’. (Ngừng). Bạn là một người đàn ông và tôi là một người đàn bà. Đó là một sự kiện sinh học. Nhưng liệu có một phân hai thuộc tâm lý? Liệu có một trạng thái phân hai tại cơ bản hay chỉ khi nào cái trí chuyển động khỏi ‘cái gì là’?

 Có đau khổ. Người con trai của tôi chết. Tôi không chuyển động thoát khỏi. Sự phân hai ở đâu? Chỉ khi nào tôi nói tôi đã mất người bầu bạn của tôi, người con trai của tôi, sự phân hai đó hiện diện. Tôi không hiểu liệu điều này là đúng? Tôi trải qua đau khổ – sự đau khổ thuộc thân thể hay tâm lý. Tất cả chúng đều được bao gồm trong đau khổ. Một chuyển động thoát khỏi nó là sự phân hai. Người suy nghĩ là sự chuyển động thoát khỏi đó. Tiếp theo, người suy nghĩ nói điều này không nên tồn tại; anh ấy cũng nói không nên có sự phân hai.

 Trước hết, hãy thấy sự kiện rằng chuyển động thoát khỏi ‘cái gì là’, là chuyển động của người suy nghĩ mà tạo ra sự phân hai. Trong quan sát sự kiện của đau khổ, tại sao phải có một người quan sát trong sự quan sát đó? Người quan sát nảy ra khi có một chuyển động, hoặc lùi về sau hoặc tiến tới trước. Suy nghĩ rằng ngày hôm qua tôi không có đau khổ – trong suy nghĩ đó sự phân hai nảy sinh. Liệu cái trí có thể vẫn ở cùng đau khổ, không có bất kỳ chuyển động thoát khỏi nó, mà tạo tác người suy nghĩ?

 Cái trí đang tự hỏi, làm thế nào thái độ phân hai này hướng về sự sống lại nảy sinh? Nó không đang nài nỉ một giải thích của làm thế nào thoát khỏi nó. Tôi đã có vui thú ngày hôm qua. Nó chấm dứt. (Ngừng) Nó không đơn giản như thế, hay sao?

P: Thật ra không dễ dàng đâu.

Krishnamurti: Tôi nghĩ dễ dàng lắm. Bạn thấy đó, điều này hàm ý sự quan sát không-so sánh. Sự so sánh là phân hai. Sự đo lường là phân hai. Có đau khổ ngày hôm nay, có sự so sánh với không-đau khổ của ngày mai. Nhưng chỉ có một sự kiện duy nhất: đau khổ mà cái trí đang trải nghiệm ngay lúc này. Không còn điều gì nữa hiện diện. Tại sao chúng ta đã làm phức tạp nó? Tại sao chúng ta đã dựng lên những triết lý kỳ cục quanh tất cả việc này? Liệu chúng ta đang bỏ lỡ cái gì đó? Có phải rằng cái trí không biết làm gì, và vì vậy chuyển động khỏi sự kiện và khiến cho sự phân hai hiện diện? Nếu nó biết, liệu nó tạo ra sự phân hai? Liệu chính ‘làm gì’ là một qui trình phân hai? Bạn hiểu chứ? Chúng ta hãy quan sátmột lần nữa. Có đau khổ – thuộc thân thể hay thuộc tâm lý. Khi cái trí không biết ‘làm gì’ trong ý nghĩa không-phân hai, nó tẩu thoát. Liệu cái trí bị trói buộc trong cái bẫy, chuyển động tiến tới hay chuyển động lùi lại có thể, liệu nó có thể giải quyết ‘cái gì là’ trong một cách không-phân hai? Bạn hiểu chứ? Vì vậy chúng ta đang hỏi, liệu đau khổ, ‘cái gì là’, có thể được thay đổi mà không có hoạt động phân hai? Liệu có thể có một trạng thái không-suy nghĩ, trong đó người suy nghĩ không-hiện diện gì cả; người suy nghĩ mà nói ‘Tôi đã không có đau khổ ngày hôm qua và tôi sẽ không có nó ngày mai’?

P: Hãy thấy điều gì xảy ra cho chúng tôi. Điều gì anh giải thích là đúng. Nhưng có một khiếm khuyết của cái gì đó bên trong chúng tôi; nó có lẽ là sức mạnh, năng lượng. Khi có một khủng hoảng, trọng lượng của khủng hoảng đó đủ mãnh liệt để cuốn hút chúng tôi vào một trạng thái nơi không có chuyển động thoát khỏi sự khủng hoảng; nhưng trong sống hàng ngày, chúng tôi có những thách thức ‘nhỏ nhoi’.

Krishnamurti: Nếu bạn thực sự hiểu rõ điều này, bạn sẽ gặp gỡ những thách thức nhỏ nhoi này.

P: Trong sống hàng ngày, chúng ta có những chuyển động huyên thuyên, thất thường của người suy nghĩ đang vận hành theo những đòi hỏi của nó. Người ta phải làm gì với điều đó.

Krishnamurti: Tôi không nghĩ bạn có thể làm bất kỳ việc gì với nó. Đó là sự phủ nhận. Nó không liên quan.

P: Nhưng điều đó rất, rất quan trọng. Đó là những cái trí của chúng ta là gì – mảnh thất thường. Người ta không có khả năng để phủ nhận điều đó.

Krishnamurti: Hãy lắng nghe, có sự ồn ào bên ngoài. Tôi không thể làm bất kỳ điều gì về nó.

P: Khi có một khủng hoảng, có hiệp thông. Trong đang sống bình thường không có hiệp thông. Tôi đi ra ngoài. Tôi có thể nhìn ngắm một cái cây và không có phân hai. Tôi có thể thấy màu sắc mà không có phân hai. Nhưng có mảnh còn lại, mảnh không-ý thức thất thường không ngừng nghỉ mà đang huyên thuyên liên tục. Người suy nghĩ bắt đầu làm việc với nó khi người suy nghĩ thấy nó đang vận hành. Sự phủ nhận tuyệt đối là thả cho nó một mình.

Krishnamurti: Ngừng lại tại yếu tố cơ bản – quan sát đau khổ mà không chuyển động thoát khỏi nó – đó là trạng thái không-phân hai duy nhất.

P: Chúng ta hãy nói về cái trí huyên thuyên thay vì về đau khổ, bởi vì đó là sự kiện tại khoảnh khắc này. Sự ồn ào của cái còi đó, cái trí huyên thuyên, đó là ‘cái gì là’.

Krishnamurti: Bạn thích điều này và không thích điều kia và thế là bắt đầu nguyên cái vòng tròn.

P: Mấu chốt chủ yếu là sự quan sát ‘cái gì là’ mà không chuyển động thoát khỏi. Chuyển động thoát khỏi tạo ra người suy nghĩ.

Krishnamurti: Bởi vì sự ồn ào, sự huyên thuyên mà là ‘cái gì là’, đã không còn, đã phai lạt đi nhưng đau khổ vẫn còn. Đau khổ không biến mất. Vượt khỏi đau khổ một cách không-phân hai; đó là nghi vấn. Làm thế nào nó sẽ được thực hiện? Bất kỳ chuyển động nào thoát khỏi cái gì là, đều là sự phân hai bởi vì trong đó có người suy nghĩ đang vận hành vào ‘cái gì là’, mà là cái phân hai.

 Lúc này liệu có thể quan sát ‘cái gì là’, mà là cái phân hai? Quan sát ‘cái gì là’, mà không có chuyển động phân hai đang xảy ra, liệu quan sát đó sẽ thay đổi ‘cái gì là’? Bạn hiểu rõ câu hỏi của tôi?

P: Nó không thực sự là một tan biến của ‘cái gì là’, hay sao? Cái mà đã được tạo ra?

Krishnamurti: Tôi chỉ biết ‘cái gì là’. Không còn gì thêm nữa. Không-nguyên nhân.

P: Đó là như thế. Người ta có thể thấy rằng khi không có chuyển động thoát khỏi đau khổ, có một tan biến của đau khổ.

Krishnamurti: Làm thế nào điều này xảy ra được? Tại sao con người đã không đến được điều này? Tại sao anh ấy đã đấu tranh với đau khổ bằng một chuyển động phân hai? Tại sao anh ấy đã không bao giờ hiểu rõ hay đã khoét sâu vào đau khổ mà không có chuyển động phân hai? Điều gì xảy ra khi không có chuyển động thoát khỏi đau khổ? Không phải điều gì xảy ra đối với sự tan biến của đau khổ, nhưng điều gì xảy ra đối với hệ thống máy móc mà vận hành? Nó rất đơn giản. Đau khổ là sự chuyển động thoát khỏi. Không có đau khổ khi chỉ có đang lắng nghe. Có đau khổ chỉ khi nào tôi chuyển động khỏi sự kiện và nói rằng đây là vui thú, đây không là vui thú. Người con trai của tôi đã chết. Đó là một sự kiện tuyệt đối, không thể chối cãi được. Tại sao có đau khổ?

P: Bởi vì tôi đã thương yêu cậu ấy.

Krishnamurti: Hãy quan sát điều gì đã xảy ra một cách không-ý thức. Tôi đã thương yêu cậu ấy. Cậu ấy đã đi rồi. Đau khổ là sự hồi tưởng về tình yêu của tôi đối với cậu ấy. Cậu ấy không còn nữa. Nhưng sự kiện tuyệt đối rằng cậu ấy đã đi rồi. Hãy ở lại cùng sự kiện đó. Có đau khổ chỉ khi nào tôi nói rằng cậu ấy không còn nữa, mà là khi người suy nghĩ hiện diện và nói, ‘con trai của tôi không còn ở đó nữa, cậu ấy là bầu bạn của tôi’, và mọi chuyện của nó.

S: Không chỉ là ký ức về người con trai đã chết rồi của tôi mới là đau khổ. Lúc này có sự cô độc.

Krishnamurti: Người con trai của tôi chết rồi. Đó là một sự kiện. Sau đó có suy nghĩ về sự cô độc. Sau đó có sự đồng hóa của tôi cùng cậu ấy. Tất cả điều đó là một qui trình của sự suy nghĩ và người suy nghĩ. Nhưng tôi chỉ có một sự kiện. Con trai của tôi chết rồi, tình trạng cô độc, không bầu bạn, tuyệt vọng, tất cả đều là kết quả của sự suy nghĩ, mà tạo ra sự phân hai; một chuyển động thoát khỏi ‘cái gì là’. Nó không cần sức mạnh hay sự khẳng định để không chuyển động. Sự khẳng định là phân hai.

 Chỉ có một việc duy nhất, mà là sự kiện và chuyển động thoát khỏi sự kiện của sự kiện, khỏi ‘cái gì là’. Chính chuyển động này nuôi dưỡng sự cay đắng, lãnh đạm, không-thương yêu, dửng dưng, mà tất cả đều là sản phẩm của sự suy nghĩ. Sự kiện là con trai của tôi đã chết rồi.

 Không-nhận biết trọn vẹn về ‘cái gì là’ nuôi dưỡng người suy nghĩ, mà là hành động phân hai; và khi cái trí rơi lại vào cái bẫy của hành động phân hai, đó là ‘cái gì là’; hãy ở lại cùng nó – bởi vì bất kỳ chuyển động nào thoát khỏi nó là một hành động phân hai khác. Cái trí luôn luôn giải quyết ‘cái gì là’ như nhiễu loạn, không-nhiễu loạn. Và ‘cái gì là’, cái sự kiện, không cần thay đổi bởi vì nó là ‘cái vượt khỏi’ rồi. Tức giận là ‘cái gì là’. Chuyển động phân hai của không-tức giận là rời khỏi ‘cái gì là’. Không-chuyển động khỏi ‘cái gì là’, là không còn tức giận nữa. Thế là, cái trí – một lần nó đã nhận biết, một lần nó đã có sự nhận biết không-phân hai – khi tức giận nảy sinh lại, không hành động từ ký ức. Lần tới sự tức giận nảy sinh, đó là ‘cái gì là’. Cái trí luôn luôn đang giải quyết ‘cái gì là’. Vì vậy, ý tưởng phân hai là hoàn toàn sai lầm, ảo tưởng.

P: Đây là hành động lạ thường. Hành động phân hai là không-hành động.

Krishnamurti: Bạn phải đơn giản. Chính là cái trí mà không-lanh lợi, mà không-ranh mãnh, mà không-đang cố gắng tìm những thay thế cho hành động phân hai, mới có thể hiểu rõ. Những cái trí của chúng ta không đơn giản như thế. Mặc dầu hầu hết chúng ta đều nói về đơn giản, đơn giản đó thuộc về một miếng vải che thân.

 Thật ra không-phân hai có nghĩa nghệ thuật của lắng nghe. Bạn nghe con chó đang sủa đó – lắng nghe nó, không có một chuyển động thoát khỏi nó. Hãy ở lại cùng ‘cái gì là’. (Ngừng) Con người ở lại cùng ‘cái gì là’ và không bao giờ chuyển động khỏi nó, không có những dấu vết.

P: Và khi những dấu vết xảy ra, thấy rằng chúng xảy ra. Một động thái của sự nhận biết xóa sạch dấu vết.

Krishnamuti: Hoàn toàn đúng. Đó là phương cách sống.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34324)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16856)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22961)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13047)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21950)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22174)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14863)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23567)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24091)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23626)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17138)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19342)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27038)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14413)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13835)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22675)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14728)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17352)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12661)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13856)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10402)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14673)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17196)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12541)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12690)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10352)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28714)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10689)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11127)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16866)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15763)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13332)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12548)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11353)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13024)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19304)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12244)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28581)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10038)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21509)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12786)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17812)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26207)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11701)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10846)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22737)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12031)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10597)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11388)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11518)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant