Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 10 – Chết và Sống

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9480)
Đối thoại 10 – Chết và Sống

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 10

CHẾT VÀ SỐNG

New Delhi, ngày 28 tháng 12 năm 1970

N

gười hỏi P: Phải có một cách học hành về chết như thế nào. Biết chết như thế nào có sự quan trọng lạ thường đối với chúng tôi.

Krishnamurti: Những người truyền thống và những người chuyên nghiệp – và qua từ ngữ những người chuyên nghiệp tôi có ý những vị đạo sư, những Sankaracharya, những Adi Sankaracharya, những yogi – họ trả lời nghi vấn này như thế nào?

P: Truyền thống phân chia sống thành những chặng đường khác nhau. Có Brahmacharya, một chặng đường của độc thân, khi như một học sinh, cậu bé học hành từ một đạo sư. Chặng đường thứ hai là chặng đường của Grihastha, nơi người đàn ông lập gia đình, có con cái, tìm kiếm sự tích lũy của cảivân vân. Anh ấy cũng giúp dỡ những người khất sĩ và trẻ em và vì vậy giúp đỡ xã hội. Chặng đường thứ ba, Vanaprastha, con người ra khỏi sự theo đuổi những việc thế gianđối diện chặng đường của sự chuẩn bị cho chặng đường cuối cùng mà là Sannyasa, mà trong đó có một từ bỏ sự nhận dạng của tên tuổi gia đình – khoác vào chiếc áo cà sa tượng trưng.

 Cũng có một niềm tin rằng tại khoảnh khắc của chết, quá khứ của tất cả con người đều gom tụ lại. Nếu nghiệp lực của anh ấy như những hành động trong sống này đã là tốt lành, vậy thì cái mà là sự suy nghĩ cuối cùng vẫn ở lại cùng anh ấy vào thời gian của chết, tiếp tục. Cái đó được chuyển sang sống kế tiếp. Họ cũng nói về sự cần thiết cốt lõi phải giữ cho cái trí được yên lặng tại thời điểm chết, cho sự kết thúc của nghiệp lực, cho cái trí hoàn toàn tỉnh táo ngay tại khoảnh khắc của chết.

Krishnamurti: Liệu một con người truyền thống trải qua tất cả điều này hay nó chỉ là những từ ngữ?

P: Thông thường, thưa anh, những người Ấn giáo truyền thống có kinh Gita được đọc tại thời điểm chết để cho cái trí của anh ấy ngay tức khắc tự cắt đứt tất cả sự thân mật gia đình, sợ hãi, của cải, vân vân. Điều này không trả lời được câu hỏi của tôi. Bằng cách nào cá thể học hành về chết như thế nào?

Krishnamurti: Hãy nhìn một chiếc lá mùa xuân – nó tinh tế như thế nào và tuy nhiên nó có sức mạnh lạ thường để chịu đựng được cơn gió; vào mùa hè nó lớn lên và vào mùa đông nó chuyển thành màu vàng và rồi nó chết. Đó là một tromg những việc đẹp đẽ nhất khi nhìn thấy. Toàn sự việc là chuyển động của vẻ đẹp, của sự mỏng manh. Chiếc lá mà rất rất mỏng manh, trở nên đầy đặn, có hình thể, gặp gỡ mùa hè và sau đó khi mùa đông đến nó chuyển thành màu vàng. Không bao giờ có bất kỳ ý thức nào của xấu xí, không bao giờ có một tàn tạ giữa mùa hè. Nó là một chuyển động liên tục từ vẻ đẹp sang vẻ đẹp. Có sự trọn vẹn trong chiếc lá mùa xuân cũng như trong chiếc lá đang chết. Tôi không biết liệu bạn thấy điều đó?

 Tại sao con người không thể sống và chết trong cách đó? Cái sự việc đang hủy hoại anh ấy từ lúc khởi đầu cho đến khi kết thúc là gì? Hãy nhìn một cậu trai mười tuổi hay mười hai hay mười ba tuổi – nụ cười của cậu ấy trọn vẹn làm sao. Đến tuổi bốn mươi cậu ấy trở nên khó khăn và cứng ngắt, toàn dáng điệu và khuôn mặt thay đổi. Cậu ấy bị trói buộc trong một khuôn mẫu.

 Làm thế nào người ta học hành về sống và chết, không phải chỉ học hành về chết. Làm thế nào người ta học hành để sống một sống mà trong đó chết là một bộ phận; mà trong đó sự kết thúc, chết, là một phần bẩm sinh của sống?

P:: Làm thế nào chết là một phần bẩm sinh của sống? Chết là cái gì đó trong tương lai, trong thời gian.

Krishnamurti: Chính xác đó là nó. Chúng ta đã đưa chết ra khỏi những bức tường, ra khỏi chuyển động của sống. Nó là cái gì đó phải lẩn tránh, phải tẩu thoát, không suy nghĩ về nó.

 Nghi vấn là sống là gì và chết là gì. Hai cái này phải hội tụ cùng nhau, không tách rời. Tại sao chúng ta đã tách rời hai cái này?

P: Bởi vì chết là một trải nghiệm hoàn toàn khác hẳn sống. Người ta không biết chết.

Krishnamurti: Thế sao? Câu hỏi của tôi là tại sao chúng ta đã tách rời hai cái này; tại sao có một khoảng cách rộng lớn này giữa hai cái? Lý do tại sao những con người phân chia hai cái này là gì?

P: Bởi vì trong chết, cái thể hiện trở thành không-thể hiện. Bởi vì cả trong sinh ra lẫn trong chết đi có một bí mật cốt lõi; một xuất hiện và một biến mất.

Krishnamurti: Đó là lý do tại sao chúng ta tách rời hai cái – sự xuất hiện của một em bé và sự biến mất của một ông già? Đó có phải là lý do tại sao con người đã tách rời sống khỏi chết? Các cơ quan thuộc sinh học kết thúc – sanh ra, trưởng thành và chết – người trẻ xuất hiện và người già biến mất. Đó là lý do? Bạn đang nói lý do cho sự phân chia là bởi vì có một khởi đầu và một kết thúc; có sanh ra, niên thiếu, trưởng thành và chết đi. Đó là lý do cho sự sợ hãi về chết. Chắc chắn có một khởi đầu và một kết thúc. Tôi được sinh ra, tôi sẽ chết đi vào ngày mai – có một khởi đầu và một kết thúc. Tại sao tôi không chấp nhận việc đó?

P: Trong chết được bao hàm sự kết thúc của ‘cái tôi’ – của tất cả mọi điều tôi đã trải nghiệm. Sự kết thúc cuối cùng của ‘cái tôi’ xảy ra.

Krishnamurti: Đó là lý do cho sự phân chia bên trong? Dường như đó không là lý do rõ ràng tại sao con người đã phân chia sống khỏi chết.

P: Có phải bởi vì sợ hãi?

Krishnamurti: Liệu do bởi sợ hãi mà khiến tôi phân chia sống và chết? Liệu tôi biết sống là gì và chết là gì?

P: Vâng.

Krishnamurti: Liệu tôi biết hân hoan, vui thú, đó là sống và tôi suy nghĩ chết như sự kết thúc của điều đó? Liệu đó là lý do tại sao chúng ta phân chia một chuyển động được gọi là sống và một chuyển động được gọi là chết? Chuyển động chúng ta gọi là sống, liệu nó là sống? Hay nó chỉ là một chuỗi của những đau khổ, những vui thú, những thất vọng? Đó là điều gì chúng ta gọi là sống?

P: Tại sao anh trao cho nó một ý nghĩa đặc biệt như thế?

Krishnamurti: Liệu có bất kỳ hình thức nào khác của sống? Đây là số mạng của mỗi con người. Con người sợ hãi rằng cái mà anh ấy đã đồng hóa sẽ kết thúc. Vì vậy anh ấy muốn một tiếp tục của cái được gọi là sống này, không bao giờ kết thúc. Anh ấy muốn một tiếp tục của những phiền muộn của anh ấy, của những vui thú, những đau khổ, những hoang mang, những xung đột của anh ấy. Anh ấy muốn cùng sự việc như thế phải tiếp tục, không bao giờ có một kết thúc. Và sự kết thúc của tất cả điều đó, anh ấy gọi là chết. Vì vậy, lúc này cái trí đang làm gì trong điều này? Cái trí bị rối loạn; nó trong xung đột, trong thất vọng. Nó bị trói buộc trong vui thú, trong đau khổ. Cái trí gọi điều đó là sống và cái trí không muốn kết thúc bởi vì nó không biết việc gì xảy ra nếu nó kết thúc. Vì vậysợ hãi chết.

 Tôi đang tự hỏi mình, đây là sống hay sao? Sống phải có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn hơn điều này.

P: Tại sao? Tại sao nó phải có một ý nghĩa khác hẳn?

Krishnamurti: Sống là thành tựu, thất vọng, và tất cả điều đó đang xảy ra. Cái trí của tôi đã quen thuộc điều đó và không bao giờ thâm nhập liệu đó là sống? Cái trí của tôi đã không bao giờ tự hỏi nó tại sao tôi gọi cái này là sống? Nó là một thói quen?

P: Tôi thực sự không hiểu rõ câu hỏi của anh.

Krishanmurti: Rốt cuộc tôi phải đặt ra nghi vấn.

P: Tại sao tôi phải đặt ra?

Krishnamurti: Sống của tôi, từ lúc tôi được sinh ra cho đến khi tôi chết đi là một đấu tranh không ngừng nghỉ.

P: Sống là hành động, thấy, hiện diện: tổng thể của điều đó hiện diện ở đó.

Krishnamuti: Tôi thấy vẻ đẹp, bầu trời, một em bé dễ thương. Tôi cũng thấy sự xung đột với người con của tôi, với những người hàng xóm của tôi; sống là một chuyển động trong xung đột và vui thú.

P: Tại sao tôi phải thắc mắc điều đó? Cái trí thắc mắc chỉ khi nào có phiền muộn, khi có nhiều đau khổ.

Krishnamurti: Tại sao không thắc mắc khi bạn có vui thú? Khi không có vui thú có đau khổ.

P: Thưa anh, sống không là một chuỗi của những khủng hoảng. Những khủng hoảng của đau khổ có ít lắm. Chúng là những dịp hiếm hoi.

Krishnamurti: Nhưng tôi thấy việc này đang xảy ra trong sống. Tôi thấy nó đang xảy ra và thế là thắc mắc về sự phân chia này của sống và chết.

P: Anh thắc mắc nhưng những người khác lại không. Chúng tôi thấy có một phân chia; nó là một sự kiện đối với chúng tôi.

Krishnamurti: Tại mức độ nào, tại chiều sâu nào, bằng sự quan trọng nào bạn đang thực hiện câu nói này? Dĩ nhiên, nó là một sự kiện. Tôi được sinh ra và tôi sẽ chết đi. Vậy thì không có gì thêm nữa phải được nói.

P: Điều đó không đầy đủ. Chính sự kiệnchúng tôi đã hỏi học hành về chết như thế nào…

Krishnamurti: Tôi nói, cũng học hành sống như thế nào.

P: Và tôi đã lắng nghe. Tôi đã không tự đặt ra nghi vấn đó cho chính tôi.

Krishnamurti: Hãy học hành sống như thế nào. Vậy thì điều gì xảy ra? Nếu tôi học hành sống như thế nào, tôi cũng học hành chết như thế nào. Tôi muốn học hành về phiền muộn, vui thú, đau khổ, vẻ đẹp. Tôi học hành. Bởi vì tôi đang học hành về sống, tôi đang học hành về chết. Học hành là một hành động của tinh lọc, không phải sự thâu lượm hiểu biết. Học hành là tẩy sạch. Tôi không thể học hành nếu cái trí của tôi đầy nghẹt. Cái trí phải tự tẩy sạch chính nó để học hành. Vì vậy khi cái trí muốn học hành, nó phải tự-làm trống không chính nó khỏi mọi thứ mà nó đã biết, lúc đó nó có thể học hành.

 Vì vậy có sống mà tất cả chúng ta đều biết. Đầu tiên, phải có một học hành về sống hàng ngày này. Lúc này liệu cái trí có thể học hành, không tích lũy? Nếu không hiểu rõ điều gì được hàm ý trong hành động đầu tiên của học hành, liệu nó có thể học hành? Điều gì được hàm ý? Khi tôi không biết, vậy là cái trí của tôi, không-biết, có thể học hành. Liệu cái trí có thể ‘không biết’ để cho nó có thể học hành về sống – sống mà trong đó có đau khổ, phiền muộn, hoang mang, tranh đấu? Liệu nó có thể tiếp cận sống trong một trạng thái của không-biết và thế là học hành? Một cái trí như thế có thể học hành về sống cũng có thể học hành về chết.

 Điều gì quan trọng không phải học hành về cái gì đó, nhưng hành động của học hành. Cái trí chỉ có thể học hành khi nó không-biết. Chúng ta tiếp cận sống cùng hiểu biết về sống – cùng hiểu biết của nguyên nhân, hậu quả, nghiệp lực. Chúng ta tiếp cận sống cùng ý thức của ‘Tôi biết’, cùng những kết luận và những công thức và cùng những thứ mà chúng ta chất đầy cái trí. Nhưng tôi không biết về chết. Vì vậy tôi muốn học hành về chết. Nhưng tôi không thể học hành về chết. Chỉ khi nào tôi biết học hành thì tôi sẽ hiểu rõ về chết. Chết là làm trống không cái trí, khỏi hiểu biết mà tôi đã tích lũy.

P: Có thể có học hành về sống trong học hành về chết. Sâu thẳm trong ý thức của con người có sự sợ hãi không tên này của không còn hiện diện.

Krishnamurti: Sự sợ hãi không tên của không-hiện diện. Hiện diện là biết rằng tôi là cái này, rằng tôi hạnh phúc, rằng tôi trải qua một thời gian tuyệt vời. Trong cùng cách như vậy tôi muốn biết về chết. Tôi không muốn học hành, tôi muốn biết. Tôi muốn biết chết có nghĩa gì.

P: Để cho tôi được tự do khỏi sợ hãi.

Krishnamurti: Nếu tôi không biết làm thế nào để lái một chiếc xe hơi, tôi bị sợ hãi. Khoảnh khắc tôi biết, nó chấm dứt. Thế là biết về chết của tôi phụ thuộc vào quá khứ. Hiểu biếtquá khứ, vì vậy tôi nói tôi phải biết chết có nghĩa gì để cho tôi có thể sống. Liệu bạn thấy trò chơi mà bạn đang đùa giỡn vào chính bạn, trò chơi mà cái trí đang đùa giỡn vào chính nó?

 Hành động của học hành là cái gì đó hoàn toàn khác hẳn hành động của biết. Bạn thấy, biết không bao giờ là hiện tại năng động. Học hành luôn luôn ở trong hiện tại năng động. Học hành về chết – tôi thực sự không biết nó có nghĩa gì. Không lý thuyết, không suy đoán nào sẽ thỏa mãn tôi. Tôi sẽ tìm ra, tôi sẽ học hành mà trong đó không-lý thuyết, không-kết luận, không-hy vọng, không-suy đoán, nhưng chỉ có động thái của học hành; thế là không có sợ hãi về chết.

 Muốn tìm ra chết có nghĩa gì, hãy học hành.

 Trong cùng cách, tôi thực sự muốn biết sống là gì. Vì vậy tôi phải tiếp cận sống bằng một cái trí trong sáng, không có gánh nặng của hiểu biết. Khoảnh khắc cái trí thú nhậntuyệt đối không biết gì cả, nó được tự do để học hành. Nhưng không có gì phải học hành. Tuyệt đối không có gì phải học hành, ngoại trừ sự học hành thuộc công nghệ của làm thế nào đi đến mặt trăng. Sự tự do của học hành về cái gì – sự việc mà tôi đã gọi là sống, sự việc mà tôi đã gọi là chết. Tôi không biết nó có nghĩa gì. Vì vậy luôn luôn có đang sống cùng đang chết. Không có chết khi cái trí hoàn toàn được tự do khỏi cái đã được biết – cái đã được biết là những niềm tin, những trải nghiệm, những kết luận, sự hiểu biết, đang nói tôi đã chịu đựng đau khổvân vân.

 Thuộc trí năng, chúng ta đã chạm khắc một cách đẹp đẽ sống tùy theo tình trạng bị quy định của chúng ta. Muốn đến được Thượng đế ‘Tôi phải sống độc thân’, ‘Tôi phải giúp đỡ người nghèo khó,’ ‘Tôi phải giữ lời thề sống cơ cực.’

 Chết nói bạn không thể chạm khắc được tôi. Nhưng tôi muốn tiếp xúc chết; tôi muốn định hình nó vào khuôn mẫu của tôi.

 Chết nói bạn không thể chạm khắc được tôi, bạn không thể đùa giỡn với tôi. Cái trí quen sự đùa giỡn – chạm khắc cái gì đó từ sự trải nghiệm.

 Chết nói bạn không thể trải nghiệm tôi.

 Chết là một trải nghiệm căn nguyên trong ý nghĩa rằng nó là một trạng thái tôi thực sự không-biết. Tôi có thể sáng chế những công thức về chết – sự suy nghĩ cuối cùng là cái mà tự-thể hiện chính nó – nhưng chúng là những suy nghĩ của những người khác. Tôi thực sự không biết. Thế là tôi kinh hãi quá chừng. Vì vậy, liệu tôi có thể học hành về sống và vì vậy về chết?

 Vậy là, phủ nhận ‘biết’ – thấy điều gì xảy ra. Trong đó có vẻ đẹp thực sự, tình yêu thực sự, sự việc thực sự xảy ra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28090)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6642)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8728)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9230)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15231)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8168)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8613)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16596)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26691)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18483)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15488)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22359)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19282)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18179)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16061)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25460)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12796)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37749)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19918)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10634)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 9952)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10488)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10297)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 10966)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15069)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10787)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19532)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11601)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10678)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11146)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10044)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10467)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11461)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10812)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11311)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12048)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 10955)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 12935)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17599)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15043)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15530)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10907)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12004)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 10970)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21590)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12009)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9114)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20089)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17111)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 9994)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant