Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 16 – Trật tự và Sự Hình thành Ý tưởng

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9795)
Đối thoại 16 – Trật tự và Sự Hình thành Ý tưởng

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

Madras, 1971

Đối thoại 16

TRẬT TỰ VÀ HÌNH THÀNH Ý TƯỞNG

Madras, ngày 8 tháng 1 năm 1971

N

gười hỏi A: Cản trở lớn nhất đối với sự nhận biếtý tưởng. Sự khác nhau giữa sự kiệný tưởng về một sự kiện là gì?

Krishnamurti: Những người chuyên môn hiểu sự nhận biết, thấy, sự kiện như thế nào?

R: Trong Vedanta, nó được nói rằng ý thức hành động qua những cơ quan thuộc giác quan. Nó thấy một vật. Ý thức thâu nhận hình dạng của vật đó. Nó giống như nước đang thâu nhận hình thể của con tàu. Đó là sự nhận biết.

Krishnamurti: Sự nhận biết, thấy, đối với bạn là gì? Bạn thấy cái tủ, bạn có hình ảnh của cái tủ, vì vậy, công nhận nó như cái tủ. Khi bạn thấy món đồ đạc đó, liệu bạn có hình ảnh trước hay bạn thấy trước, có hình ảnh rồi sau đó công nhận?

R: Ngay tức khắc hình ảnh nảy sinh, rồi sau đó chúng ta gọi nó là một cái tủ.

A: Có thấy và đặt tên ngay tức khắc.

Krishnamurti: Vì vậy tôi không có hình ảnh trước. Có thấy, liên tưởng, công nhận, đặt tên. Tôi không bắt đầu bằng đặt tên, hình ảnh. Điều đó khá dễ dàng. Tôi thấy bạn sáng nay, tôi đã thấy bạn ngày hôm qua và, thế là, có một hình ảnh của bạn. Vì vậy hình ảnh đó là bạn. Liệu có một khác biệt giữa sự vật thuộc vật chất của sự nhận biếthình ảnh thuộc tinh thần của sự nhận biết?

A: Có một khác biệt giữa hai. Một cái thuần túy là một hình ảnh của một hình thể như trong trường hợp của một vật, cái còn lại là một hình ảnh được tạo tác bởi những phản ứng, mà không chỉ là hình dáng và hình thể.

Krishnamurti: Hãy đưa ra một ví dụ. Bạn thấy một con rắn. Những tế bào não bị quy định đến những con rắn; chúng biết rằng con rắn là nguy hiểm. Bộ não bị quy định từ thời niên thiếu đến sự nguy hiểm của một con rắn và thế là nó phản ứng. Đứa trẻ, vì không biết sự nguy hiểm, có lẽ không phản ứng, nhưng người mẹ hiện diện và chỉ rõ sự nguy hiểm của nó.

 Cái tủ, bức tranh, sự đặt tên về nó, đã hình thành một bức tranh trong những tế bào não. Thế là, tôi nói nó là một cái tủ. Những tế bào não đã bị quy định bởi một môi trường sống đặc biệt để gọi nó là một cái tủ.

A: Vì vậy, vấn đề là, trước khi thấy sự kiện, ý tưởng về sự kiện nảy sinh mà có lẽ không nhất thiếtsự kiện.

Krishnamurti: Bạn đang nói rằng có bạo lực, người ta cảm thấy tức giận, sau đó đặt tên của cảm thấy và đặt tên là củng cố quá khứ?

A: Tôi gặp người em của tôi. Em ấy đã cãi cọ với tôi và tôi cảnh giác khi tôi gặp lại em ấy lần sau. Vì vậy tôi không thể thấy em ấy ngay tức khắc. Tôi chỉ thấy ý tưởng.

R: Những tế bào não mang hình ảnh của sự tổn thương.

Krishnamuri: Có bạo lực, tức giận. Tại khoảnh khắc của tức giận, không có sự đặt tên. Một giây sau, tôi gọi nó là tức giận. Sự đặt tên của cảm thấy đó như tức giận là ghi lại sự kiện đó và củng cố quá khứ, ký ức, mà đã công nhận cảm thấy đó như tức giận.

R: Đây là cái gì đó mà khác biệt sự đặt tên.  

Krishnamurti: Chúng ta đang đến đó. Có cái tủ, có con người, tiếp theo tất cả những phản ứng thuộc cảm xúc. Người ta tức giận, tại khoảnh khắc tức giận không có đặt tên, một giây sau có đặt tên.

 Tại sao chúng ta đặt tên? Tại sao chúng ta nói ‘tôi tức giận’? Tại sao có nhu cầu để diễn tả nó thành những từ ngữ? Hay nó chỉ là thói quen; một phản ứng ngay tức khắc?

A: Một hệ thống phòng vệ bắt đầu. Chính sự công nhận đang tạo ra một tình huống mà nói ‘Tôi không muốn tham gia vào xung đột.’

Krishanamurti: Đó là một phần của nó – sự đặt tên như một qui trình của tự-phòng vệ. Tại sao người ta đặt tên một phản ứng đặc biệt?

R: Nếu không, người ta sẽ không cảm thấy rằng người ta đang tồn tại.

Krishnamurti: Tại sao chúng ta đặt tên nó, tại sao tôi đặt tên? Bạn đã gây tổn thương tôi và tôi đặt tên nó và hình thành một tự-phòng vệ nào đó.

A: Nếu tôi không đặt tên, sẽ không có sự tiếp tục.

Krishnamurti: Tại sao cái trí cho nó một tiếp tục?

R: Để cảm thấy rằng nó tồn tại.

Krishnamurti: Cái gì tồn tạicảm thấy, tức giận?

 Tại sao sự đặt tên trở thành quan trọng như vậy? Tôi đặt tên ngôi nhà của tôi, người vợ của tôi, người con của tôi. Sự đặt tên củng cố cái tôi. Nếu tôi không đặt tên, điều gì sẽ xảy ra? Sự tức giận sẽ chấm dứt.

 Tại sao phải có sự tiếp tục? Tại sao bộ não, cái trí, vận hành trong tiếp tục? Tại sao luôn luôn có sự diễn đạt bằng từ ngữ này?

A: Sự diễn đạt bằng từ ngữ xác định rằng có cặn bã nào đó.

Krishnamurti: Tại sao chúng ta làm việc này? Nó có lẽ là một thói quen, một hình thức của trao sự tiếp tục cho một ý thức của tức giận và không-kết thúc về nó. Tất cả điều này chỉ rõ rằng cái trí cần đến sự bận tâm. Lúc này, tại sao cái trí đòi hỏi được bận tâm với tình dục, với Thượng đế, với tiền bạc? Tại sao?

A: Cái trí luôn luôn muốn được phấn khích. Nếu không có phấn khích cái trí sẽ đờ đẫn.

Krishnamurti: Như thế à? Chính sự bận tâm này không đang khiến cho cái trí đờ đẫn hay sao?

A: Tại sao cái trí lờ đờ khi nó không bị bận tâm?

Krishnamurti: Ngược lại, khoảnh khắc chúng ta bắt đầu thắc mắc tại sao có sự cần thiết này cho bất kỳ loại bận tâm nào, cái trí đã sinh động rồi.

A: Chỉ không còn bận tâm vẫn chưa đủ.

Krishnamurti: Dĩ nhiên, có nhiều người mỗi lúc một đờ đẫn và đờ đẫn hơn mỗi ngày mà không có bất kỳ bận tâm nào. Nhưng câu hỏi là tại sao cái trí của bạn lại muốn bị bận tâm? Liệu nó sẽ ngủ mê nếu nó không được bận tâm? Hay do bởi sự sợ hãi trống không mới khiến cho cái trí muốn được bận tâm?

 Tôi đang thâm nhập. Trong thâm nhập cái trí sẽ không ngủ mê. Chỉ cái trí không-bận tâm mới có thể thâm nhập.

 Vì vậy hầu hết chúng ta đều rơi vào những thói quenngăn cản đang nhìn.

 Tôi là một người Ấn giáo và trong suốt phần còn lại thuộc sống của tôi, tôi là một người Ấn giáo. Bạn là một người Hồi giáotrong suốt phần còn lại thuộc sống của bạn, bạn là một người Hồi giáo. Nhưng nếu tôi tự-chất vấn mình tại sao tôi là một người Hồi giáo, tôi mở cửa cho sự thâm nhập.

 Vì vậy sự đặt tên có lẽ là bộ phận của sợ hãi không biết phải làm gì này.

A: Sợ hãi phải rời xa cái bờ của cái đã được biết.

Krishnamurti: Đó là tất cả. Vì vậy, liệu cái trí, những tế bào não, liệu chúng có thể quan sát phản ứng được gọi là tức giận, không đặt tên nó và thế là chấm dứt nó? Nếu nó thực hiện điều đó, không có chuyển qua. Khi lần tới phản ứng nảy sinh, mà tôi đã đặt tên như sợ hãi, nó có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn, một chất lượng khác hẳn.

A: Sự khó khăn của chúng tôichúng tôi gặp gỡ sự tức giận bằng ý tưởng.

Krishnamurti: Tại sao chúng ta có những ý tưởng, những công thức? Chúng ta hãy bắt đầu lại – chúng ta biết sự tức giận, đặt tên, phản ứng bị quy định. Lúc này, chúng ta thấy đặt tên là một nhân tố trao sự tiếp tục cho tức giận. Tôi thấy sự thật rằng bằng cách đặt tên chúng ta cho sự tiếp tục. Vì vậy tôi không đặt tên. Khi tôi thấy sự nguy hiểm của con rắn và không chạm vào nó, tôi cũng không chạm điều này nữa. Tôi thấy rằng đặt tên về sự kiện trao sự tiếp tục cho cái gì đó mà tôi đã gọi là tức giận và thế là đặt tên tạo ra sự kéo dài. Vì vậy, sự đặt tên chấm dứt. Vì vậy, sự tức giận trải qua một thay đổi.

R: Có vẻ như thể rằng suốt khoảnh khắc khi chúng ta có thể quan sát sự tức giận, sự tức giận biến mất, và sự tức giận hiện diện trong khoảnh khắc khi chúng ta không thể quan sát.

Krishnamurti: Không. Bạn gọi tôi là một người ngu dốt. Tôi tức giận. Tôi không thích bạn gọi tôi là một người ngu dốt. Tôi thấy điều đó. Tôi thấy sự giả dối của đặt tên. Vì vậy phản ứng ở đâu? Điều này xảy ra ngay tức khắc. Thay vì đặt tên, điều này xảy ra và thế là, không có tổn thương gì cả. Câu hỏi của ‘A’ là tại sao chúng ta có những công thức? Chúng ta có những ý tưởng trước và sau đó sự nhận biết, hành động.

A: Thay vì một hành động của sự nhận biết, chúng ta lại có tình trạng bị quy định sâu thẳm của chúng ta. Cùng nhau tất cả những điều này, những văn hóa, những xã hội, những nhân loại học – là một cái khung sẵn sàng của sự tham khảo mà trao tặng cho chúng ta một ý thức an toàn.

Krishnamurti: Tại sao bạn làm điều này, thưa bạn?

R: Chúng tôi đã được nuôi dưỡng theo cách đó.

Krishnamurti: Điều đó không thỏa đáng. Bạn không biết tại sao chúng ta làm điều này? Thuộc kinh tế và xã hội chúng ta biết nó gây lợi lộc. Chủ nghĩa bộ lạc vẫn còn kiên cố. Nó quan trọng cực kỳ. Hãy vượt khỏi những công thức, những khuôn mẫu của Ấn giáo, Hồi giáo, vậy là bạn sẽ thấy điều gì xảy ra.

 Thuộc cá nhân, tôi không có công thức. Tại sao bạn có nó? Hãy tìm ra.

Những công thức, mà là những khuôn mẫu, trao tặng bạn sự hướng dẫn an toàn trong hành động. Chúng ta đặt ra sự giới hạnphụ thuộc vào nó chúng ta hành động và trong đó có sự an toàn. Vì vậy, sự sợ hãi của không-an toàn đúng là một trong những lý do tại sao chúng ta có những công thức, những ý tưởng. Cái trí muốn được vĩnh cửu. Những tế bào não vận hành hoàn hảo chỉ khi nào có sự an toàn hoàn toàn. Tôi không biết bạn có nhận thấy điều đó trong chính bạn? Những tế bào não chỉ vận hành khi có trật tự hoàn hảo. Và có trật tự hoàn hảo trong một công thức.

A: Anh có ý, thuộc tâm lý chúng tôi có một ham muốn cố hữu cho trật tự.

Krishnamurti: Thậm chí thuộc sinh học cơ thể, nếu tôi không có một loại trật tự nào đó, các cơ quan thân thể phản kháng. Trật tựtuyệt đối cần thiết, cốt lõi. Những công thứcphương cách an toàn nhất để có trật tự.

 Bạn có thấy rằng trước khi bạn đi ngủ, những tế bào não thiết lập trật tự? ‘Đáng ra tôi không nên làm điều này, đáng ra tôi không nên nói điều này.’ Và khi đi ngủ, nếu bạn không thiết lập trật tự, nó tự tạo ra trật tự riêng của nó. Đây là tất cả những sự kiện. Những tế bào não đòi hỏi trật tự mà là sự an toàn. Và những công thức là một trong những cách an toàn nhất để hướng dẫn sống của người ta mà không có vô trật tự. Theo sau một vị đạo sư có an toàn hơn. Những công thứccần thiết cho một cái trí mà mong muốn có trật tự, mà hy vọng tìm ra trật tự. Điều gì xảy ra? Bởi vì nó hy vọng tìm ra trật tự trong chủ nghĩa bộ lạc – bộ lạc Brahmin, bộ lạc Ấn giáo, bộ lạc quốc gia – và nếu bạn thoát khỏi nó, có sự nguy hiểm. Thế là, gọi chính người ta là một người Ấn giáo là an toàn. Thuộc về đấng Jehovah, là được đối xử như một người của nhóm đó. Chừng nào tôi còn phụ thuộc vào một giáo phái nào đó, đạo sư nào đó, tôi còn được an toàn. Lúc này, điều gì xảy ra khi bạn có một công thức? Bạn có những công thức của bạn và tôi có những công thức của tôi.

 Bạn có sự an toàn của bạn, và tôi người không có thời gian, chấp nhận nó. Điều gì xảy ra cho tôi khi tôi chấp nhận công thức của bạn? Bạn không biết điều gì xảy ra khi tôi là một người Ấn giáo hay sao? Có sự phân chia, vì vậy không-an toàn. Những tế bào não đòi hỏi trật tự, bởi vì chúng muốn có sự hòa hợp. Chúng sử dụng những công thức như một phương tiện dẫn đến trật tự. Những tế bào não đòi hỏi trật tự, đòi hỏi an toàn, ngược lại chúng không thể vận hành đúng cách. Tìm kiếm trật tự qua công thức tạo ra sự phân chia, vô trật tự. Ngay khi tôi thấy sự nguy hiểm thực sự, tiếp theo điều gì xảy ra? Vậy thì tôi không tìm kiếm sự an toàn trong công thức, vậy thì tôi thâm nhập liệu có sự an toàn trong bất kỳ phương hướng nào khác, liệu có một việc như an toàn.

A: Nhưng bộ não cần được an toàn

Krishnamurti: Bộ não phải có trật tự.

A: Trật tự không là an toàn.

Krishnamurti: Trật tựan toàn, trật tựhòa hợp, nhưng chính sự tìm kiếm trật tự lại kết thúc trong vô trật tự. Vì vậy, khi thấy điều này, tôi buông bỏ tất cả những công thức. Tôi không còn là một người Ấn giáo, một người Phật giáo, một người Hồi giáo nữa. Buông bỏ tất cả điều này. Buông bỏthông minh. Trong chính buông bỏ, cái trí đã trở nên rất thông minh. Thông minhtrật tự. Tôi không biết liệu bạn thấy điều này?

 Trong sự khai sáng có trật tự. Thế là, bộ não có thể vận hành trong điều kiện hoàn hảo. Thế là, sự liên hệ có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn.

 Những tế bào não đang tìm kiếm trật tự trong vô trật tự. Chúng không thấy bản chất của vô trật tự. Chúng không hiểu rõtrật tự là gì? Chỉ khi nào những tế bào não phủ nhận chủ nghĩa bộ lạc, những công thức, trong chính sự phủ nhận đó là thông minh, mà là trật tự.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28167)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6668)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8776)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9283)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15366)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8237)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8664)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16691)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 26929)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18643)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15616)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22497)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19430)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18310)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16178)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25592)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12858)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37844)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20070)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10699)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10017)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10538)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10364)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11026)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15203)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10831)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19660)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11685)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10759)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11224)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10098)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10552)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11533)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10876)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11386)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12135)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11037)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 12992)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17747)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15199)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15678)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 10973)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12089)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11032)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21812)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12081)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9169)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20156)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17234)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10069)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant