Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 16 – Trật tự và Sự Hình thành Ý tưởng

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9797)
Đối thoại 16 – Trật tự và Sự Hình thành Ý tưởng

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

Madras, 1971

Đối thoại 16

TRẬT TỰ VÀ HÌNH THÀNH Ý TƯỞNG

Madras, ngày 8 tháng 1 năm 1971

N

gười hỏi A: Cản trở lớn nhất đối với sự nhận biếtý tưởng. Sự khác nhau giữa sự kiệný tưởng về một sự kiện là gì?

Krishnamurti: Những người chuyên môn hiểu sự nhận biết, thấy, sự kiện như thế nào?

R: Trong Vedanta, nó được nói rằng ý thức hành động qua những cơ quan thuộc giác quan. Nó thấy một vật. Ý thức thâu nhận hình dạng của vật đó. Nó giống như nước đang thâu nhận hình thể của con tàu. Đó là sự nhận biết.

Krishnamurti: Sự nhận biết, thấy, đối với bạn là gì? Bạn thấy cái tủ, bạn có hình ảnh của cái tủ, vì vậy, công nhận nó như cái tủ. Khi bạn thấy món đồ đạc đó, liệu bạn có hình ảnh trước hay bạn thấy trước, có hình ảnh rồi sau đó công nhận?

R: Ngay tức khắc hình ảnh nảy sinh, rồi sau đó chúng ta gọi nó là một cái tủ.

A: Có thấy và đặt tên ngay tức khắc.

Krishnamurti: Vì vậy tôi không có hình ảnh trước. Có thấy, liên tưởng, công nhận, đặt tên. Tôi không bắt đầu bằng đặt tên, hình ảnh. Điều đó khá dễ dàng. Tôi thấy bạn sáng nay, tôi đã thấy bạn ngày hôm qua và, thế là, có một hình ảnh của bạn. Vì vậy hình ảnh đó là bạn. Liệu có một khác biệt giữa sự vật thuộc vật chất của sự nhận biếthình ảnh thuộc tinh thần của sự nhận biết?

A: Có một khác biệt giữa hai. Một cái thuần túy là một hình ảnh của một hình thể như trong trường hợp của một vật, cái còn lại là một hình ảnh được tạo tác bởi những phản ứng, mà không chỉ là hình dáng và hình thể.

Krishnamurti: Hãy đưa ra một ví dụ. Bạn thấy một con rắn. Những tế bào não bị quy định đến những con rắn; chúng biết rằng con rắn là nguy hiểm. Bộ não bị quy định từ thời niên thiếu đến sự nguy hiểm của một con rắn và thế là nó phản ứng. Đứa trẻ, vì không biết sự nguy hiểm, có lẽ không phản ứng, nhưng người mẹ hiện diện và chỉ rõ sự nguy hiểm của nó.

 Cái tủ, bức tranh, sự đặt tên về nó, đã hình thành một bức tranh trong những tế bào não. Thế là, tôi nói nó là một cái tủ. Những tế bào não đã bị quy định bởi một môi trường sống đặc biệt để gọi nó là một cái tủ.

A: Vì vậy, vấn đề là, trước khi thấy sự kiện, ý tưởng về sự kiện nảy sinh mà có lẽ không nhất thiếtsự kiện.

Krishnamurti: Bạn đang nói rằng có bạo lực, người ta cảm thấy tức giận, sau đó đặt tên của cảm thấy và đặt tên là củng cố quá khứ?

A: Tôi gặp người em của tôi. Em ấy đã cãi cọ với tôi và tôi cảnh giác khi tôi gặp lại em ấy lần sau. Vì vậy tôi không thể thấy em ấy ngay tức khắc. Tôi chỉ thấy ý tưởng.

R: Những tế bào não mang hình ảnh của sự tổn thương.

Krishnamuri: Có bạo lực, tức giận. Tại khoảnh khắc của tức giận, không có sự đặt tên. Một giây sau, tôi gọi nó là tức giận. Sự đặt tên của cảm thấy đó như tức giận là ghi lại sự kiện đó và củng cố quá khứ, ký ức, mà đã công nhận cảm thấy đó như tức giận.

R: Đây là cái gì đó mà khác biệt sự đặt tên.  

Krishnamurti: Chúng ta đang đến đó. Có cái tủ, có con người, tiếp theo tất cả những phản ứng thuộc cảm xúc. Người ta tức giận, tại khoảnh khắc tức giận không có đặt tên, một giây sau có đặt tên.

 Tại sao chúng ta đặt tên? Tại sao chúng ta nói ‘tôi tức giận’? Tại sao có nhu cầu để diễn tả nó thành những từ ngữ? Hay nó chỉ là thói quen; một phản ứng ngay tức khắc?

A: Một hệ thống phòng vệ bắt đầu. Chính sự công nhận đang tạo ra một tình huống mà nói ‘Tôi không muốn tham gia vào xung đột.’

Krishanamurti: Đó là một phần của nó – sự đặt tên như một qui trình của tự-phòng vệ. Tại sao người ta đặt tên một phản ứng đặc biệt?

R: Nếu không, người ta sẽ không cảm thấy rằng người ta đang tồn tại.

Krishnamurti: Tại sao chúng ta đặt tên nó, tại sao tôi đặt tên? Bạn đã gây tổn thương tôi và tôi đặt tên nó và hình thành một tự-phòng vệ nào đó.

A: Nếu tôi không đặt tên, sẽ không có sự tiếp tục.

Krishnamurti: Tại sao cái trí cho nó một tiếp tục?

R: Để cảm thấy rằng nó tồn tại.

Krishnamurti: Cái gì tồn tạicảm thấy, tức giận?

 Tại sao sự đặt tên trở thành quan trọng như vậy? Tôi đặt tên ngôi nhà của tôi, người vợ của tôi, người con của tôi. Sự đặt tên củng cố cái tôi. Nếu tôi không đặt tên, điều gì sẽ xảy ra? Sự tức giận sẽ chấm dứt.

 Tại sao phải có sự tiếp tục? Tại sao bộ não, cái trí, vận hành trong tiếp tục? Tại sao luôn luôn có sự diễn đạt bằng từ ngữ này?

A: Sự diễn đạt bằng từ ngữ xác định rằng có cặn bã nào đó.

Krishnamurti: Tại sao chúng ta làm việc này? Nó có lẽ là một thói quen, một hình thức của trao sự tiếp tục cho một ý thức của tức giận và không-kết thúc về nó. Tất cả điều này chỉ rõ rằng cái trí cần đến sự bận tâm. Lúc này, tại sao cái trí đòi hỏi được bận tâm với tình dục, với Thượng đế, với tiền bạc? Tại sao?

A: Cái trí luôn luôn muốn được phấn khích. Nếu không có phấn khích cái trí sẽ đờ đẫn.

Krishnamurti: Như thế à? Chính sự bận tâm này không đang khiến cho cái trí đờ đẫn hay sao?

A: Tại sao cái trí lờ đờ khi nó không bị bận tâm?

Krishnamurti: Ngược lại, khoảnh khắc chúng ta bắt đầu thắc mắc tại sao có sự cần thiết này cho bất kỳ loại bận tâm nào, cái trí đã sinh động rồi.

A: Chỉ không còn bận tâm vẫn chưa đủ.

Krishnamurti: Dĩ nhiên, có nhiều người mỗi lúc một đờ đẫn và đờ đẫn hơn mỗi ngày mà không có bất kỳ bận tâm nào. Nhưng câu hỏi là tại sao cái trí của bạn lại muốn bị bận tâm? Liệu nó sẽ ngủ mê nếu nó không được bận tâm? Hay do bởi sự sợ hãi trống không mới khiến cho cái trí muốn được bận tâm?

 Tôi đang thâm nhập. Trong thâm nhập cái trí sẽ không ngủ mê. Chỉ cái trí không-bận tâm mới có thể thâm nhập.

 Vì vậy hầu hết chúng ta đều rơi vào những thói quenngăn cản đang nhìn.

 Tôi là một người Ấn giáo và trong suốt phần còn lại thuộc sống của tôi, tôi là một người Ấn giáo. Bạn là một người Hồi giáotrong suốt phần còn lại thuộc sống của bạn, bạn là một người Hồi giáo. Nhưng nếu tôi tự-chất vấn mình tại sao tôi là một người Hồi giáo, tôi mở cửa cho sự thâm nhập.

 Vì vậy sự đặt tên có lẽ là bộ phận của sợ hãi không biết phải làm gì này.

A: Sợ hãi phải rời xa cái bờ của cái đã được biết.

Krishnamurti: Đó là tất cả. Vì vậy, liệu cái trí, những tế bào não, liệu chúng có thể quan sát phản ứng được gọi là tức giận, không đặt tên nó và thế là chấm dứt nó? Nếu nó thực hiện điều đó, không có chuyển qua. Khi lần tới phản ứng nảy sinh, mà tôi đã đặt tên như sợ hãi, nó có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn, một chất lượng khác hẳn.

A: Sự khó khăn của chúng tôichúng tôi gặp gỡ sự tức giận bằng ý tưởng.

Krishnamurti: Tại sao chúng ta có những ý tưởng, những công thức? Chúng ta hãy bắt đầu lại – chúng ta biết sự tức giận, đặt tên, phản ứng bị quy định. Lúc này, chúng ta thấy đặt tên là một nhân tố trao sự tiếp tục cho tức giận. Tôi thấy sự thật rằng bằng cách đặt tên chúng ta cho sự tiếp tục. Vì vậy tôi không đặt tên. Khi tôi thấy sự nguy hiểm của con rắn và không chạm vào nó, tôi cũng không chạm điều này nữa. Tôi thấy rằng đặt tên về sự kiện trao sự tiếp tục cho cái gì đó mà tôi đã gọi là tức giận và thế là đặt tên tạo ra sự kéo dài. Vì vậy, sự đặt tên chấm dứt. Vì vậy, sự tức giận trải qua một thay đổi.

R: Có vẻ như thể rằng suốt khoảnh khắc khi chúng ta có thể quan sát sự tức giận, sự tức giận biến mất, và sự tức giận hiện diện trong khoảnh khắc khi chúng ta không thể quan sát.

Krishnamurti: Không. Bạn gọi tôi là một người ngu dốt. Tôi tức giận. Tôi không thích bạn gọi tôi là một người ngu dốt. Tôi thấy điều đó. Tôi thấy sự giả dối của đặt tên. Vì vậy phản ứng ở đâu? Điều này xảy ra ngay tức khắc. Thay vì đặt tên, điều này xảy ra và thế là, không có tổn thương gì cả. Câu hỏi của ‘A’ là tại sao chúng ta có những công thức? Chúng ta có những ý tưởng trước và sau đó sự nhận biết, hành động.

A: Thay vì một hành động của sự nhận biết, chúng ta lại có tình trạng bị quy định sâu thẳm của chúng ta. Cùng nhau tất cả những điều này, những văn hóa, những xã hội, những nhân loại học – là một cái khung sẵn sàng của sự tham khảo mà trao tặng cho chúng ta một ý thức an toàn.

Krishnamurti: Tại sao bạn làm điều này, thưa bạn?

R: Chúng tôi đã được nuôi dưỡng theo cách đó.

Krishnamurti: Điều đó không thỏa đáng. Bạn không biết tại sao chúng ta làm điều này? Thuộc kinh tế và xã hội chúng ta biết nó gây lợi lộc. Chủ nghĩa bộ lạc vẫn còn kiên cố. Nó quan trọng cực kỳ. Hãy vượt khỏi những công thức, những khuôn mẫu của Ấn giáo, Hồi giáo, vậy là bạn sẽ thấy điều gì xảy ra.

 Thuộc cá nhân, tôi không có công thức. Tại sao bạn có nó? Hãy tìm ra.

Những công thức, mà là những khuôn mẫu, trao tặng bạn sự hướng dẫn an toàn trong hành động. Chúng ta đặt ra sự giới hạnphụ thuộc vào nó chúng ta hành động và trong đó có sự an toàn. Vì vậy, sự sợ hãi của không-an toàn đúng là một trong những lý do tại sao chúng ta có những công thức, những ý tưởng. Cái trí muốn được vĩnh cửu. Những tế bào não vận hành hoàn hảo chỉ khi nào có sự an toàn hoàn toàn. Tôi không biết bạn có nhận thấy điều đó trong chính bạn? Những tế bào não chỉ vận hành khi có trật tự hoàn hảo. Và có trật tự hoàn hảo trong một công thức.

A: Anh có ý, thuộc tâm lý chúng tôi có một ham muốn cố hữu cho trật tự.

Krishnamurti: Thậm chí thuộc sinh học cơ thể, nếu tôi không có một loại trật tự nào đó, các cơ quan thân thể phản kháng. Trật tựtuyệt đối cần thiết, cốt lõi. Những công thứcphương cách an toàn nhất để có trật tự.

 Bạn có thấy rằng trước khi bạn đi ngủ, những tế bào não thiết lập trật tự? ‘Đáng ra tôi không nên làm điều này, đáng ra tôi không nên nói điều này.’ Và khi đi ngủ, nếu bạn không thiết lập trật tự, nó tự tạo ra trật tự riêng của nó. Đây là tất cả những sự kiện. Những tế bào não đòi hỏi trật tự mà là sự an toàn. Và những công thức là một trong những cách an toàn nhất để hướng dẫn sống của người ta mà không có vô trật tự. Theo sau một vị đạo sư có an toàn hơn. Những công thứccần thiết cho một cái trí mà mong muốn có trật tự, mà hy vọng tìm ra trật tự. Điều gì xảy ra? Bởi vì nó hy vọng tìm ra trật tự trong chủ nghĩa bộ lạc – bộ lạc Brahmin, bộ lạc Ấn giáo, bộ lạc quốc gia – và nếu bạn thoát khỏi nó, có sự nguy hiểm. Thế là, gọi chính người ta là một người Ấn giáo là an toàn. Thuộc về đấng Jehovah, là được đối xử như một người của nhóm đó. Chừng nào tôi còn phụ thuộc vào một giáo phái nào đó, đạo sư nào đó, tôi còn được an toàn. Lúc này, điều gì xảy ra khi bạn có một công thức? Bạn có những công thức của bạn và tôi có những công thức của tôi.

 Bạn có sự an toàn của bạn, và tôi người không có thời gian, chấp nhận nó. Điều gì xảy ra cho tôi khi tôi chấp nhận công thức của bạn? Bạn không biết điều gì xảy ra khi tôi là một người Ấn giáo hay sao? Có sự phân chia, vì vậy không-an toàn. Những tế bào não đòi hỏi trật tự, bởi vì chúng muốn có sự hòa hợp. Chúng sử dụng những công thức như một phương tiện dẫn đến trật tự. Những tế bào não đòi hỏi trật tự, đòi hỏi an toàn, ngược lại chúng không thể vận hành đúng cách. Tìm kiếm trật tự qua công thức tạo ra sự phân chia, vô trật tự. Ngay khi tôi thấy sự nguy hiểm thực sự, tiếp theo điều gì xảy ra? Vậy thì tôi không tìm kiếm sự an toàn trong công thức, vậy thì tôi thâm nhập liệu có sự an toàn trong bất kỳ phương hướng nào khác, liệu có một việc như an toàn.

A: Nhưng bộ não cần được an toàn

Krishnamurti: Bộ não phải có trật tự.

A: Trật tự không là an toàn.

Krishnamurti: Trật tựan toàn, trật tựhòa hợp, nhưng chính sự tìm kiếm trật tự lại kết thúc trong vô trật tự. Vì vậy, khi thấy điều này, tôi buông bỏ tất cả những công thức. Tôi không còn là một người Ấn giáo, một người Phật giáo, một người Hồi giáo nữa. Buông bỏ tất cả điều này. Buông bỏthông minh. Trong chính buông bỏ, cái trí đã trở nên rất thông minh. Thông minhtrật tự. Tôi không biết liệu bạn thấy điều này?

 Trong sự khai sáng có trật tự. Thế là, bộ não có thể vận hành trong điều kiện hoàn hảo. Thế là, sự liên hệ có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn.

 Những tế bào não đang tìm kiếm trật tự trong vô trật tự. Chúng không thấy bản chất của vô trật tự. Chúng không hiểu rõtrật tự là gì? Chỉ khi nào những tế bào não phủ nhận chủ nghĩa bộ lạc, những công thức, trong chính sự phủ nhận đó là thông minh, mà là trật tự.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19825)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20897)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19231)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40497)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21233)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41018)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24073)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23023)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17800)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26901)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20697)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33585)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20952)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28861)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12675)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25238)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19114)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17499)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25736)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 18980)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18948)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 28982)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18883)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33275)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38351)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31199)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18197)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24471)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19433)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17874)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22987)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 17996)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32134)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17356)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17411)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16054)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18553)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20751)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18042)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20072)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14851)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20875)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15053)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15745)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12928)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14481)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14892)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29347)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12745)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14498)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant