Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời giới thiệu

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 7231)
Lời giới thiệu

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

Lời giới thiệu


Nhiều lần Krishnamurti đã yêu cầu không nên có sự giải thích quyết đoán về lời giảng của ông, mặc dù ông khuyến khích những người quan tâm nó cùng nhau bàn luận. Vì vậy, quyển sách này không cố gắng giải thích hay nhận xét lời giảng đã có sẵn trong hàng tá sách, băng cát-xét, băng video. Trái lại, mục đích của nó là cố gắng khám phá khởi nguồn của sự soi rạng mà lời giảng được đặt nền tảng, làm sáng tỏ bản chất của một con người lạ thường nhất, theo dấu quá trình phát triển của ông và hiểu rõ toàn cảnh sống của ông. Điều này thực sự khó khăn khi phải thực hiện trong ba quyển sách chi tiết được tách rời bởi một khoảng cách thời gian – tám năm trong trường hợp hai quyển đầu tiên và thứ hai.

 Sau khi quyển đầu tiên, The Years of Awakening Những năm thức giấc, được xuất bản tôi được hỏi liệu tôi có tin tưởng vào những việc xảy ra mà tôi đã ghi lại. Trả lời của tôi là tôi chắc chắn tin tưởng chúng cho đến năm 1928 – đó là, cho đến lúc tôi hai mươi tuổi – ngoại trừ những biến cố ngu xuẩn ở Hà lan năm 1925. Sau biến cố, cách nhìn của tôi đối với chúng thay đổi theo riêng của Krishnamurti.

Tôi không thể nhớ một thời gian nào mà tôi không biết Krishnamurti. Điều này do bởi mẹ tôi đã đối xử tốt với ông khi lần đầu tiên ông đến nước Anh vào năm 1911 một cậu trai trẻ mười bảy tuổi ngơ ngác, dường như trẻ hơn tuổi tác của ông nhiều, mà, hai năm trước, đã được chọn bởi những người lãnh đạo của Theosophical Society tại Ấn độ như là phương tiện cho đấng Cứu thế tương lai. Mẹ tôi đã gia nhập Theosophical Society năm 1910, trước khi tôi ba tuổi, và tôi được nuôi nấng trong giáo lý của nó mà rất đơn giản ở bên ngoài: một tin tưởng trong tình huynh đệ của con người và sự bình đẳng của tất cả mọi tôn giáo. Thay vì ‘Lạy Cha chúng con ở trên trời . . .’, mỗi buổi sáng tôi được dạy lặp lại câu: ‘Tôi là một mắt xích trong chuỗi xích bằng vàng của tình yêu mà trải dài quanh thế giới và tôi hứa giữ gìn mắt xích của tôi sáng rực và chắc chắn.’ Tuy nhiên, có một mấu chốt khó hiểu đối với Theosophy mà tôi không nhận thức được mãi đến khi tôi khoảng mười ba tuổi. Điểm mấu chốt khó hiểu này và sự sáng lập Society sẽ được trình bày trong chương đầu của quyển sách này.

 Theosophy sẽ gây ra một bất hòa giữa cha mẹ tôi đến nỗi không thể hàn gắn được khi những năm trôi qua, tuy nhiên, mỉa mai thay, chính nhờ cha tôi nên mẹ tôi đã biết được Theosophy. Năm 1909, cha tôi, Edwin Lutyens, nhận được một công việc từ một chủ ngân hàng người Pháp, Guillaume Mallet, để xây một ngôi nhà cho ông ấy trên Bờ biển Normandy, không xa Dieppe lắm. Khi cha tôi trở về từ chuyến viếng thăm đầu tiên đến nơi xây dựng, ông kể với mẹ tôi rằng gia đình Mallet là Theosophists, những người theo Huyền bí học. Khi mẹ hỏi ông nó có ý gì thì ông trả lời không biết nhưng nói thêm rằng họ có một tủ sách bí mật luôn luôn được khóa lại. Việc này kích thích tính hiếu kỳ của mẹ tôi và khi mẹ tôi theo cha trong chuyến thăm kế tiếp của ông đến Varengeville, mẹ thuyết phục Madame Mallet giải thích những nét chính trong những tin tưởng của Theosophy. Điều gì gây tác động mẹ nhất là sự bình thường của gia đình Mallet, không có sự kỳ quặc trong họ để bà liên tưởng đến một tôn giáo chữa bệnh bằng phép lạ. Điều lập dị duy nhất là họ là những người ăn chay nghiêm ngặt. Vào lễ Giáng sinh, Madame Mallet gửi cho mẹ tôi những bài giảng ở London 1907 của Mrs Annie Besant,[1] Chủ tịch Theosophical Society, những bài giảng này gây thỏa mãn cho mẹ tôi đến mức ‘quá vui mừng và say mê’, theo tự truyện của bà,[2] từng giây phút bà trở nên ‘vô cùng hưng phấn’ đến độ hầu như bà không thể kiềm chế ‘hét lên đầy hân hoan’. Dường như nó khai mở những triển vọng mới mẻ của bà cho sự hiểu rõ thuộc tinh thần.

 Mẹ tôi đã chín chắn cho sự thay đổi tín ngưỡng. Sau mười ba năm kết hôn với một kiến trúc sư thành công, tham vọng mỗi lúc một gia tăng, mặc dù thương yêusay đắm, đã quá đam mê trong công việc của ông ấy đến độ không còn thời gian dành cho bà và con cái bất kỳ sự đầm ấm nào, bà tìm kiếm sự bận rộn gây thỏa mãn nào đó đầy tuyệt vọng để kích thích những nhu cầu thuộc trí năngcảm xúc của bà. Công việc nội trợ, và cuộc sống xã hội bình thường làm bà chán ngán nhiều và con cái của bà được chăm sóc bởi một người vú nuôi giỏi giang. Bà đã trở thành một người ủng hộ sôi nổi của the Women’s Suffrage movement phong trào Phụ nữ đòi quyền bầu cử (nhưng không bao giờ là một người ủng hộ vũ lực vì sợ bị bỏ tù và bị cho ăn uống hạn chế); bà đã đọc nhiều sách về xã hội học và tham gia một tổ chức được gọi là Moral Education League, Giáo dục Đạo đức, liên quan đến sự quy định của chính phủ về tệ nạn mại dâm và đã viết nhiều sách về đề tài thời sự đó và tham dự những hội nghị trong nhiều vùng của nước Anh. Cũng là một phần trong công việc này, bà trở thành một người khách mỗi tuần tại Lock Hospital dành cho sự điều trị bệnh truyền nhiễm qua đường sinh dục, nơi đó bà đọc sách của Dickens cho bệnh nhân. (Bà có một khả năng truyền cảm khi đọc truyện.) Bà cũng tổ chức những cuộc thảo luận tại nhà của chúng tôi ở Bloomsbury Square để bàn bạc những đề tài như di truyền và môi trường sống. Nhưng, không giống như nhiều người đương thời, bà không quan tâm đến Spiritualism, thuyết duy tâm,[3] cũng không, tại quãng đời đó của bà, quan tâm đến thuyết huyền bí hay những đạo thần bíẤn độ mà đã thu hút vô số người phương Tây đến phương Đông từ khi sự trung thành với Thiên chúa giáo của họ bị suy yếu bởi Darwin.

 Là một người có bản chất rất hiến dâng, một người Thiên chúa giáo sùng tín thời thanh nữ với một ý thức mãnh liệt của được gần gũi Jesus, niềm tin Theosophy trong đấng Cứu thế sắp đến, và sự cần thiết phải chuẩn bị thế giới cho sự kiện vô cùng to lớn này, đã thỏa mãn mọi khía cạnh của thân tâm mẹ tôi. Đầu năm 1910, sau khi gia nhập Society, mọi năng lượng của mẹ đều dồn hết cho phong trào; mẹ tham dự những lớp học về nói chuyện trước công chúng để có thể đi khắp mọi nơi giảng thuyết về Theosophy (bà trở thành một diễn giả thành công). Bà cũng bắt đầu một Theosophical Lodge mới[4] cùng Dr Haden Guest (sau đó trở thành Lord Guest), cũng là một người mới cải đạo, ‘được dự định để hợp nhất tất cả những người ao ước cống hiến sự ảnh hưởng thực tế đối với những nguyên lý về tình huynh đệ của Theosophy.’

 Mùa hè 1910 Mrs Besant từ Ấn độ đến Anh và mẹ tôi đi nghe bà giảng thuyết tại Fabian Society về đề tài ‘Một hình thức lý tưởng của Chính phủ’. Bernard Shaw và Sydney Webb trên bục giảng. Mẹ tôi viết ‘Tôi hoàn toàn bị choáng váng khi lần đầu tiên nhìn thấy bà. Bà trông không giống bất kỳ người nào mà tôi đã từng gặp trước kia. Bà mặc những cái robe màu trắng tinh bay chập chờn tỏa ra một nhân cách thuần nữ tính, trong khi đầu của bà lại đồ sộ và gọn gàng cùng mái tóc bạc ngắn và quăn tít trông rất nam tính. Bà đã sáu mươi ba tuổi nhưng vẫn chưa có dấu hiệu gì của sức sống đang suy giảm. Bà có một sinh lực kinh ngạc nhất trong bất kỳ người nào tôi đã từng gặp.’

 Một vài tuần sau mẹ tôi lại nghe bà giảng thuyết tại một sảnh đường ở Kingsway về đề tài ‘Đấng Christ sắp đến’, và sau đó tìm được can đảm để tiếp cận bà và mời bà ăn trưa. Bà đồng ý. Người thứ ba duy nhất hiện diện tại bữa ăn trưa là cha tôi.

 Khi đến nhà Mrs Besant xin phép cởi mũ ra, dũ mái tóc bạc ngắn và quăn tít ra khi bà cởi mũ, mà sau đó mẹ tôi phát giác đó là nét đặc trưng của bà. Mẹ tôi nhớ lại lúc đó đã nghĩ bà có đôi mắt sáng như cọp, một sắc nâu kỳ lạ, mà dường như nhìn xuyên thấuthâm nhập vào những suy nghĩ sâu thẳm nhất của mẹ. Tại cuộc gặp gỡ đầu tiên này, cha tôi ưa thích Mrs Besant và bị ấn tượng bởi bà, đặc biệt trước khi chia tay bà yêu cầu cha thiết kế English Theosophical Headsquarters mới ở Tavistock Square (hiện nay là British Medical Association). Chỉ từ từ cha tôi mới bực bội bởi sự ảnh hưởng của bà đối với mẹ tôi.

 Năm 1929, lúc ba mươi bốn tuổi, Krishnamurti tự tách khỏi Theosophical Society, sau một trải nghiệm tinh thần đã thay đổi trọn vẹn sống của ông, và từ bỏ vai trò Đấng Cứu thế trong những năm sắp tới để đi lại thế giới như một người thầy cùng triết lý tôn giáo riêng của ông, không dính líu với bất kỳ tôn giáo hay giáo phái chính thống nào. Mục đích duy nhất trong lời giảng của ông là đưa con người được tự do khỏi tất cả những chuồng cũi đã phân chia con người với con người, như chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, giai cấptruyền thốngvì vậy tạo ra một thay đổi trong tinh thần con người.

 Đã không giảm bớt sự quan tâm trong lời giảng của Krishnamurti từ khi ông chết vào tháng hai 1986, ba tháng trước sinh nhật lần thứ chín mươi mốt của ông. Thật ra, danh tiếng của ông đang lan tràn. Lý do thậm chí tại sao ông không được nổi tiếng nhiều hơn là vì ông không bao giờ thích mọi người biết đến ông. Người ta biết về ông qua truyền khẩu hay vô tình đọc được một trong những quyển sách của ông.

 Trong khi Krishnamurti đang được công bố bởi Theosophical Society, tiền bạc và đất đai và tài sản dâng tặng được tuôn vào ông bởi những hội viên của nó. Khi ông từ bỏ Society và phủ nhận vai trò của ông, ông hoàn lại những món quà này cho những người trao tặng và bắt đầu sống mới của ông mà không biết liệu ông sẽ có bất kỳ người nào theo sau hay bất kỳ tiền bạc nào ngoại trừ số tiền trợ cấp hàng năm là £500. Như nó đã xảy ra, ông cuốn hút những người mới của một thế giới lý thúrộng rãi hơn nhiều, và như thể do ma thuật tiền bạc đã tuôn vào mọi đề án mà ông quan tâm đến. Trong phần còn lại thuộc sống của ông, ông thường nói, ‘Hãy làm một việc, và nếu nó đúng đắn tiền bạc sẽ theo sau.’

 Krishnamurti phủ nhận là đạo sư của bất kỳ người nào. Ông không muốn người ta tuân phục và mù quáng theo ông. Ông chỉ trích sự sùng bái tước vị đạo sư và thiền định thăng hoa được mang từ Ấn độ sang phương Tây. Đặc biệt, ông không muốn có những môn đồ mà có lẽ sẽ tạo ra một tôn giáo mới quanh ông, dựng lên một hệ thống chức sắc và đảm trách uy quyền. Ông khẳng định rằng cốt lõi của lời giảng là: nó dựng lên một cái gương trong đó người ta có thể tự thấy chính họ rõ ràng như họ là cả bên trong lẫn bên ngoài, và nếu họ không thích điều gì họ đã thấy tự thay đổi chính họ.

 Quan tâm đặc biệt của Krishnamurti là giáo dục trẻ em trước khi những cái trí của các em trở nên cố định bởi những thành kiến của xã hội nơi các em đã được sinh ra. Bảy trường học ông sáng lập và mang tên ông – năm ở Ấn độ, một ở Anh và một ở California – vẫn đang phát triển. Trường lâu nhất, Rishy Valley, được sáng lập vào đầu những năm 1930 giữa Madras và Bangalore, hiện nay có 340 học sinh, một phần ba trong số các em là nữ sinh, và được biết đến là một trong những trường giỏi nhất ở Ấn độ. Trường ở Hampshire, nước Anh, trường nhỏ nhất, chỉ có sáu mươi học sinh, nhưng thuộc hai mươi bốn quốc tịch và một số lượng nam nữ bằng nhau.

 Một trung tâm Krishnamurti lớn dành cho những người trưởng thành ngay sau khi ông chết, sát ngôi trường ở nước Anh mặc dù hoàn toàn tách rời nó. Ý tưởng của trung tâm này, và việc xây dựng nó là một trong những quan tâm chính

trong hai năm sống cuối cùng của ông.[5] Ba trung tâm dành cho những người trưởng thành nhỏ hơn hiện nay đã được xây dựngẤn độ. Krishnamurti cũng sáng lập ba Foundation vào những năm 1960 – ở Anh, Ấn độ, và California, và một phụ trợ ở Puerto Rico – có một chức năng thuần túy hành chánh, mỗi Foundation có những người quản trị riêng của nó. Cũng có những ủy viên kết hợp trong hai mươi mốt quốc gia.

 Krishnamurti có hàng tá bạn bè trong nhiều quốc gia giống như những ủy viên này, trong mọi tầng lớp xã hội từ những nữ hoàng đến những thầy tu Phật giáo. Trong những ngày đầu Bernard Shaw, Leopold Stokowski và Antoine Bourdelle, người điêu khắc, ở trong số những người khâm phục ông nhất, và, sau đó, Aldous Huxley, Jawaharlal Nehru và Pablo Casals trong số bạn bè của ông. Mới đây, ông kết bạn với Mrs Gandhi, Prof Maurice Wilkins, người dành giải Nobel về y khoa, Dr David Bohn, người vật lý học, Rupert Sheldrake, người sinh vật học, và Terence Stamp, người nghệ sĩ, và ông cũng tình cờ quen biết một số những người nổi tiếng mà đã phỏng vấn ông và có những bàn luận với ông, gồm có Dr Jonas Salk và Đức Dalai Lama. Không nghi ngờ gì cả, Krishnamurti đã bắc một cây cầu giữa khoa học và tôn giáo. Khán giả trong những nói chuyện của ông không đông lắm, dao động giữa 1.000 và 5.000 người trong hai mươi năm cuối của ông tùy theo kích cỡ của sảnh đường hay cái lều trong đó ông nói chuyện. Điều gì là sự cuốn hút của ông đối với những người đến nghe ông? Cũng thật lạ lùng khi có vài hippies trong số họ, mặc dù đa số còn trẻ. Trong mọi nói chuyện, khán giả của ông là những người ăn mặc chỉnh tề, cư xử đứng đắn, đàn ông cũng như phụ nữ, mà lắng nghe ông đầy nghiêm túc và có ý định mặc dù ông không có tài hùng biện. Lời giảng của ông không có ý định mang lại sự thanh thản nhưng lay động con người vào sự tỉnh thức được tình trạng nguy hiểm của thế giới mà mỗi cá thể phải chịu trách nhiệm bởi vì, theo ông, mỗi cá thể thế giới trong thu nhỏ lại.

 Không nghi ngờ gì cả, một phần trong sức cuốn hút của Krishnamurti là hình dáng của ông. Đặc biệt khi còn trẻ ông đẹp lạ thường, và ngay cả lúc tuổi già ông vẫn giữ được vẻ đẹp lạ thường của hình thể, cấu trúc xương và dáng đi đứng. Nhưng còn nhiều hơn những điều này, có một sức hấp dẫn cá nhân kéo mọi người lại gần ông. Ông có thể nói trước công chúng đầy nghiêm khắc, thỉnh thoảng hầu như dữ tợn, nhưng với những người riêng hay trong những nhóm nhỏ lại có một cảm giác ấm áp và tình cảm vô cùng. Mặc dù ông không thích bị tiếp xúc với thân thể mình, ông thường, khi đang ngồi nói chuyện với người nào đó, nghiêng người qua để đặt một bàn tay của ông trên cánh tay hay đầu gối của người đó, và ông thích nắm chặt tay một người bạn hay người nào đó đến yêu cầu ông sự giúp đỡ. Trên tất cả, khi ông đang nói chuyện nghiêm túc, ông thích cười cũng như nói đùa và trao đổi những câu chuyện ngớ ngẩn. Tiếng cười sâu, lớn của ông dễ dàng tạo ra sự quý mến.

 Tôi nghĩ, sau khi ông chết sự quan tâm đến Krishnamurti vẫn còn được duy trì, hay thậm chí đang gia tăng chỉ rõ rằng không những có một hấp lực cá nhân của ông được truyền qua trong những băng cát-xét hay video, nhưng còn bởi vì lời giảng của ông là một thông điệp cho ngày nay mà mọi người đều khẩn thiết mong muốn. Mặc dù người ta có lẽ không đồng ý về nhiều vấn đề ông nói, sự chân thật của ông không thể bị nghi ngờ.



[1] Mrs Besant, được sinh ra vào năm 1847, đã kết hôn với một mục sư, Frank Besant. Sau khi sanh ra hai người con, bà mất đi sự trung thành và có đủ can đảm để bộc lộ cho chồng biết. Ông ấy ly dị bà và được trao quyền nuôi nấng con cái mặc dù bà đã đấu tranh nhiều trong những phiên tòa, thực hiện sự biện hộ riêng của bà, để được nuôi nấng chúng. Sau đó bà trở thành một người vô thần công khai và một người đổi mới xã hội, một đồng sự của Charles Bradlaugh và một người bạn thân của Bernard Shaw. Bà cải đạo vào Theosophy năm 1889 khi W.T.Stead yêu cầunhận xét quyển the Secret Doctrine viết bởi Mrs Blavatsky một trong những người sáng lập The Theosophical Society.

[2] Candles in the Sun (Hart-Davis, 1957).

[3] Spritualism – đó là, sự tin tưởng rằng người chết có thể giao tiếp với người sống, đặc biệt qua những người đồng bóng – vẫn còn là đề tài tranh luận nóng bỏng nhất của những ngày đó. The Society for Psychical Research tổ chức nghiên cứu tinh thần đã được sáng lập ở Anh năm 1882 để tìm hiểu những chứng cớ. Sự quan tâm trong mọi hình thức của siêu nhiên được lan rộng.

[4] Society được phân chia thành Lodges. Có Lodge trong tất cả những thị trấn lớn ở Anh và Scotland, và nhiều Lodges ở Châu âu, dùng để sắp xếp những họp mặt và những giảng thuyết.

[5] Những bức ảnh của Trung tâm này xuất hiện trong quyển sách của The Prince of Wales, A Vision of Britain (Doubleday, 1989).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34293)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16846)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22943)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13036)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21905)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22155)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14843)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23548)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24062)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23593)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17118)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19328)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27012)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14396)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13819)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22659)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14711)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17340)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12640)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13847)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10393)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14659)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17180)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12523)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12683)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10346)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28695)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10680)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11113)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16859)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15756)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13321)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12535)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11341)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13015)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19300)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12227)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28547)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10030)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21490)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12770)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17795)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26185)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11680)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10825)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22706)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12024)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10592)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11370)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11506)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant